PHÂN TÍCH TÁC PHẨM ĐÂY THÔN VĨ DẠ CỦA HÀN MẶC TỬ-NGỮ VĂN 11-TẬP 2
[ 26/09/2018 00:00 AM | Lượt xem: 555 ]
Bài thơ đây thôn Vĩ Dạ được
ra đời từ một nguyên cớ rất đặc biệt. Khi Hàn Mặc Tử lâm bệnh nặng chờ đợi những
giây phút đến với tử thần ở trại phong Quy Hòa, Quy Nhơn, thì nhà thơ đã bất ngờ
nhận được một tấm bưu ảnh do người bạn gái là Hoàng Thị Kim Cúc gửi tặng từ
thôn Vĩ Dạ. Tấm bưu ảnh ấy có phong cảnh sông nước đêm trăng, có thuyền và bến.
Phía sau kèm theo mấy lời thăm hỏi để an ủi nhà thơ lúc này đang mang căn bệnh
hiểm nghèo. Đối với người bình thường tấm bưu ảnh chỉ là một quan hệ xã giao
thăm hỏi nhau nhưng với Hàn Mặc Tử thì có ý nghĩa rất riêng. Nó đã cho nhà thơ
được yêu người trong mộng với một tình yêu sâu kín nỗi lòng. Vì thế mà, kiệt
tác “Đây thôn Vĩ Dạ” đã ra đời. Khổ thứ nhất mở đầu là câu hỏi của một người
con gái. “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Thực ra đây là một lời trách yêu, một
sự dỗi hờn thể hiện nỗi trông ngóng da diết của cô gái ở thôn Vĩ. Nhưng trong
thực thế thì không có người con gái nào đang trực tiếp đối với Hàn Mặc Tử cả. Lời
nói dịu dàng và chứa đầy yêu thương ấy chính là những dòng chữ trong tấm bưu ảnh
kia, nó xôn xao, sống dậy, nó trở thành giai điệu và phát ra tiếng nói. Ở câu
thơ thứ hai chúng ta hết sức bất ngờ vì lời mới vừa cất lên thì ngay lập tức
Hàn Mặc Tử đã có mặt ngay ở không gian thôn Vĩ Dạ. Rõ ràng đây là một cuộc hành
trình trong tâm thức. “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên” Câu thơ này xuất hiện
hai từ “nắng”. Một cái nắng được phát hiện được miêu tả “nhìn nắng hàng cau” và
một cái năng tinh khôi mới mẻ, nó khiến nhà thơ phải xuýt xoa reo lên như trẻ
con “nắng mới lên”. Đây không phải là thứ nắng của mặt trời mà ngày nào chúng
ta cũng thấy. Đây là một thứ nắng rất mới vì nó xuất hiện trong buổi bình minh.
Nó thắp nên trên những hàng cau. Từ trước đến nay người ta đều cho rằng điểm
nhìn của Hàn Mặc Tử là từ xa đến gần. Người du khách thấy được nắng hàng cau và
càng đến gần khu vườn càng thấy màu xanh ngọc của là cây. Thực ra ông trở về bằng
tâm thức thì không nhất thiết phải có một cuộc dạo chơi như vậy. Đôi mắt của
Hàn Mặc Tử đang ở trên cao, trên khu vườn thôn Vĩ. Nhà thơ đang xé toạt vòm trời
đen để nhìn thấy bình minh nắng mới diệu kì thắp lên từ thôn Vĩ Dạ. Không gian
nơi có người mình yêu là một khu vườn địa đàng, là nơi có nhiều phép màu cổ
tích. Về với thôn Vĩ là trút được những nỗi phiền muộn đớn đau. Vì thế nên tâm
thức của Hàn Mặc Tử đã đáp xuống khu vườn thôn vĩ. “Vườn ai mướt qua xanh như
ngọc” Câu thơ có đến hai lần xuýt xoa, kinh ngạc. Đã “vườn ai mướt quá” lại còn
phát hiện ra cái “mướt quá” ấy là “xanh như ngọc”. Tất cả đều non tơ, tất cả đều
xanh tươi, mọi chiếc lá ở đây đều xanh như ngọc. Nó không chỉ cho ta cảm nhận bằng
thị giác mà còn cho ta cảm nhận tiếng va chạm của những chiếc lá ngọc. “Lá trúc
che ngang mặt chữ điền” Câu thơ cuối khổ một là câu thơ có nhiều cách hiểu khác
nhau. Có người cho rằng “mặt chữ điền” chính là khuôn mặt của người con gái đã
mời Hàn Mặc Tử về chơi thôn Vĩ. Bời vì “vườn ai” chính là vườn của em, nhìn thấy
khuôn mặt của em trong khu vườn ấy thì rất hợp lí. Nhưng nhà thơ Chế Lan Viên –
bạn của Hàn Mặc Tử đã rất bất mãn với cách hiểu này, ông cho rằng mặt chữ
điền có thể không xấu nhưng nhất định đó là gương mặt không theo chuẩn mực cái
đẹp của người Việt Nam khi đánh giá phụ nữ. Cũng có ý kiến lại nói là “mặt chữ
điền” là viên gạch có bốn ô vuông thường được xây trên bức bình phong của những
ngôi nhà ở thôn Vĩ. Thực ra nếu đọc thơ Hàn Mặc Tử chúng ta sẽ bắt gặp nhiều
hình tượng, thế giới kì lạ. Việc nhà thơ gặp mình trong quá khứ cũng như trong
tương lai là rất phổ biến. Vì thế dù thật khó tin nhưng ở đây Hàn Mặc Tử đã gặp
lại chính mình với gương mặt chữ điền thời còn là chàng trai tài hoa nổi danh
trên đất Huế. Nhà thơ muốn yêu một tình yêu trong trắng, thanh thản, đắm say
thì phải trở lại là con người của quá khứ, phải là một nhà thơ đa tình phong
lưu thời còn ở Huế. Nói đúng ra là nhà thơ muốn quên mình trong hiện tại với
căn bệnh hiểm nghèo để đươc yêu. Hình tượng “lá trúc che ngang” càng cung cấp
cho gương mặt chữ điền ấy những nét ngang tàng, phóng khoáng mạnh mẽ của người
đàn ông. Lá trúc trong quan niệm xưa chính là biểu hiện cho người quân tử. Nếu
khổ thơ thứ nhất cho chúng ta ấn tượng về buổi sáng thì khổ thơ thứ hai cho
chúng ta ấn tượng vè buổi chiều ở một không gian trống rỗng ngoài thôn Vĩ Dạ và
sau đó là buổi tối với cảnh sông nước con thuyền tràn ngập ánh trăng. Cả bốn
câu thơ phần nào gợi cho chúng tôi về phong cảnh xứ Huế nhưng thực ra mọi hình
tượng đều tồn tại trong những quan hệ nghịch lí, trái tự nhiên. “Gió theo lối
gió, mây đường mây” Câu thơ thứ hai không chỉ là nghịch lí mà còn là một sự trớ
trêu. Lẽ tự nhiên hoa bắp lay động thì mặt nước phải gợn sóng. Thế nhưng ở đây
chỉ có hoa bắp lay động cùng giò để dòng nước một mình buồn thiu. Chẳng thà xa
mặt cách lòng như gió với mây còn hơn đứng bên cạnh nhau mà cho nhau nhiều đắng
cay, tủi cực. Nếu khổ thơ đầu ta cảm nhận một tình yêu sắp nảy nở tuyệt vời
nhưng đến khổ thơ sau thì ta lại gặp một cuộc tình tan nát chia phôi. Thông qua
cách nói nóng gió, Hàn Mặc Tử đã chua chat phủ định người mời mình về thăm thôn
Vĩ. Đó là một kể phụ tình bỏ rơi những lời hẹn ước, làm tan nát trái tim của kẻ
yêu thương tin tường dại khờ. Người yêu trong mộng của Hàn Mặc Tử khi thì mời
đón dành sẵn một thế giới yêu thương chờ đợi, khi thì trở thành một kẻ phụ tình
phũ phàng rất lạnh lùng. Và thật bất ngờ con người ấy bỗng dung hiện ra thật
nhân từ và độ lượng. “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối
nay?” Hình tượng trăng trong thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện rất nhiều. Trăng muôn đời
là biểu tượng của hạnh phúc, đặc biệt là hạnh phúc lứa đôi. Quá khao khát hạnh
phúc nên hai câu thơ của Hàn Mặc Tử tràn ngập ánh trăng: bến trăng, sông trăng,
thuyền trăng, chở trăng. Nhân vật “ai” ở đây chỉ có thể là người mời Hàn Mặc Tử
về thăm thôn Vĩ. Người ấy đang cắm thuyền ở bến sông để chờ đợi lấy được nhiều
ánh trăng hạnh phúc và sẽ chở trăng về cho nhà thơ tối nay. Đó là sự yêu thương
cao cả, là sự thấu hiểu đến tường tận những khao khát của Hàn Mặc Tử. Thế nhưng
chữ “kịp” ở đây lửng lờ một câu hỏi: liệu có chở kịp trăng về trong tối hôm
nay? Có thể kip và cũng có thể không còn kịp nữa… Tối nay là một khái niệm thời
gian ngắn ngủi. Hàn Mặc Tử biết rằng sự sống của mình chỉ còn lại những giây
phúc ngắn ngủi ở trần thế, sẽ có người đem hạnh phúc đến cho nhà thơ nhưng nếu
đến trễ thì hạnh phúc ấy thật vô nghĩa. “Mơ khách đường xa, khách đường xa” Mở
đầu khổ thơ thứ ba là một câu thơ thật đặc biệt. Khách vốn đã xa lạ mà nhà thơ
còn lặp đến hai lần sự xa lạ ấy “khách đường xa, khách đường xa”. Thế mà, lại
có một giấc mơ về người khách không quen ấy. Thực ra đây là người mời Hàn Mặc Tử
về thăm thôn Vĩ nhưng nhà thơ hiểu rằng người ấy ngoài tầm tay với của mình.
Con người đó càng lúc càng trở nên xa lạ và càng không níu kéo được nên Hàn lại
càng gửi gắm vào giấc mơ. Có thể thấy tâm sự này qua những vần thơ khác của
Hàn: “Người đã đi rồi khôn níu lại Tình yêu chưa đã, mến chưa bưa Người đi một
nửa hồn tôi mất Một nửa hồn tôi đến dại khờ”. Bởi muốn tìm một tình yêu trong mộng
để được sống có ý nghĩa trong những giây phút cuối đời nên tâm trạng của Hàn Mặc
Tử luôn có những đối cực. Ban đầu là hi vọng tràn trề rồi lại trách móc coi người
mình yêu là kẻ phụ tình; liền sau đó nhà thơ thấy người con gái mời mình về
thăm thôn Vĩ thật chung tình, sẵn sàng cắm thuyền đợi chờ mong ánh trăng hạnh
phúc đến cho mình. Tiếp theo, Hàn Mặc Tử tuyệt vọng nhìn người yêu mình như
“khách đường xa”. Nhưng cũng liền sau đó, nhà thơ thấy người ấy quay trở lại với
mình, cô gái ấy hoàn toàn trong trắng và thánh thiện. Đại từ “em” thật giản dị,
gần gũi biết bao: “Áo em trắng quá nhìn không ra” Câu thơ vừa sáng bừng lên niềm
hi vọng thì nó đã cho Hàn Mặc Tử cảm nhận ngay sự tuyệt vọng. Đáng lẽ “áo em trắng
quá” thì anh phải nhìn rất rõ em. Thế nhưng áo em càng trắng bao nhiêu thì anh
lại càng không nhìn ra bấy nhiêu. Thực ra anh không dám nhìn bởi vì em quá
trong trắng, thanh cao… Mặc cảm khi yêu thương là một quy luật. Nhưng tôn thờ để
rồi mặc cảm như Hàn Mặc Tử là do có nguyên nhân từ cuộc đời riêng. Nhà thơ hiểu
hoàn cảnh thực tại của mình, vì thế mà dù nhân vật “em” trở lại với mình, nhà
thơ cũng không dám yêu. Hàn Mặc Tử phải tự khước từ với tình yêu của mình. Câu
thơ thứ ba nhuốm màu sắc bi quan của một triết lí nhân sinh: “Ở đây sương khói
mờ nhân ảnh” Nguyễn Gia Thiều đã từng viết: “Con quay búng sẵn lên trời Mờ mờ
nhân ảnh như người đi đêm” Đời người là một con quay đã búng sẵn, chính bản
thân ta cũng không thể điều khiển được số phận của ta. Trong mối quan hệ với
người khác thì ta chỉ nắm bắt được “nhân ảnh” chứ không thể là chính người đó.
Hàn Mặc Tử cũng vậy, nhà thơ hiểu rằng mình không chủ động được với chính mình,
mình không thể nhìn thấy rõ hình ảnh của người yêu. Thi sĩ hiểu rằng sương khói
của cuộc đời đang xóa nhòa “nhân ảnh” của nhân vật “em”… Đó là một nhận thức thật
chua chat, ngậm ngùi, nó để lại sự trống vắng như một trong hoang mạc trong tâm
hồn Hàn Mặc Tử. Đây chính là nguyên nhân khiến cho thi sĩ thốt ra một câu hỏi
bơ vơ tuyệt vọng không có chỗ nào để bám víu: “Ai biết tình ai có đậm đà?” Hai
đại từ “ai” ở câu thơ này tạo nên nhiều cách hiểu: không biết em có hiểu được
chính tình yêu của em đậm đà hay không? Không biết bản thân anh có biết được
tình yêu của chính mình đậm đà không? Liệu em có biết tình anh đậm đà không? Liệu
anh có biết tình em có đậm đà không? Một câu hỏi trong thơ nhưng ẩn chứa biết
bao nhiêu câu hỏi đằng sau nó, càng hỏi càng thấy “mờ nhân ảnh”, càng tuyệt vọng.
Càng tha thiết một tình yêu đậm đà Hàn Mặc Tử càng thấy sự đổ vỡ tuyệt vọng với
tình yêu. Vì thế mà cảm hứng chủ đạo của “Đây thôn Vĩ Dạ” chính là cảm hứng đau
xót về một tình yêu tuyệt vọng. Mọi sự tuyệt vọng đều cho người ta bi quan,
riêng tình yêu tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử lại dạy cho ta giá trị nhân văn cao cả.
Nhà thơ níu kéo cuộc sống này bằng tình yêu, dù đó là một tình yêu tuyệt vọng.
Chúng ta không gặp hoàn cảnh bi đát như Hàn Mặc Tử, nên chúng ta cần phải biết
sống như thế nào, yêu như thế nào trong cuộc đời tuyệt đẹp ở trần thế đáng sống
này.
< http://hoctotnguvan.net/phan-tich-bai-tho-day-thon-vi-da-bai >