BÀI BÁO KHOA HỌC CỦA ĐỒNG CHÍ TRỊNH THỊ NGHĨA
[ 14/10/2012 21:02 PM | Lượt xem: 1350 ]

TRIẾT HỌC MÁC VỀ MỐI QUAN HỆ  GIỮA CON NGƯỜI VỚI TỰ NHIÊN

Trịnh Thị Nghĩa

Khoa Khoa học cơ bản

 Trường ĐH Khoa học -  ĐHTN

TÓM TẮT:

Triết học Mác khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa con người và giới tự nhiên. Tác giả phân tích vai trò của tự nhiên đối với con người - xã hội cùng với sự tác động của con người  lên tự nhiên thông qua hoạt động thực tiễn của mình. C.Mác - Ph.Ăngghen đưa ra một triết lý về chinh phục tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự phát triển bền vững của tự nhiên và con người.

Lịch sử loài người đã cho thấy, ngay từ khi các khoa học cơ bản sơ khai được hình thành cũng như triết học xuất hiện thì con người đã trở thành đối tượng nghiên cứu đặc biệt. Con người với tất cả những lát cắt của nó dưới góc độ của nhiều phân ngành khoa học dường như vẫn chứa đựng nhiều bí ẩn mà nhân loại khát khao khám phá, tìm hiểu. Tựu trung lại, các khoa học đều gặp nhau ở một điểm, làm sao để con người có thể hiểu về bản thân mình ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn, làm sao có thể đưa nhân loại - nói như Ph.Ăngghen - đi từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do. Triết học Mác lấy con người làm điểm xuất phát cho việc nghiên cứu và lấy sự nghiệp giải phóng con người làm mục tiêu cao nhất của mình. Trong hệ thống những tư tưởng của C.Mác - Ph.Ăngghen về con người thì tư tưởng về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên mang nhiều giá trị nhân văn sâu sắc và ý nghĩa phương pháp luận to lớn trong thời đại ngày nay.

Con người - tự nhiên là vấn đề muôn thuở của triết học. Ngay từ khi triết học ra đời thì mối tương quan giữa con người với phần còn lại của thế giới trên cả hai phương diện, vai trò của tự nhiên đối với con người và thái độ của con người với tự nhiên đều được triết học quan tâm giải quyết ở các mức độ khác nhau. Do hạn chế bởi điều kiện lịch sử nhất định mà các nhà triết học trước Mác chưa thấy được mối quan hệ biện chứng giữa con người với tự nhiên, đặc biệt chưa thấy được vai trò chủ thể của con người trong hoạt động thực tiễn. Sự ra đời của triết học Mác với một thế giới quan khoa học và phương pháp luận biện chứng đã luận giải một cách đúng đắn về con người và lịch sử xã hội. Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên ở thế kỷ XIX, C.Mác - Ph.Ăngghen đã chứng minh sự hình thành và tiến triển của thế giới vật chất, những mắt xích gắn kết các sự vật với nhau. Nếu so với lịch sử hình thành của trái đất mất hàng triệu triệu năm, thì lịch sử của xã hội loài người thực ra còn rất mới mẻ. Nhưng kể từ khi con người xuất hiện, các nhà kinh điển của triết học Mác đã khẳng định, con người là sản phẩm tiến hóa cao nhất của giới tự nhiên. Bản thân giới tự nhiên - con người và xã hội đều thống nhất với nhau ở tính vật chất và sự phát triển không ngừng của nó trong lịch sử. Trong "Hệ tư tưởng Đức", C.Mác - Ph.Ăngghen đã viết: “Có thể chia lịch sử ra thành lịch sử tự nhiên và lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, hai mặt đó không tách rời nhau. Chừng nào mà loài người còn tồn tại thì lịch sử của họ và lịch sử tự nhiên quy định lẫn nhau” [2,10].

Trong tác phẩm “Bản thảo kinh tế triết học 1844”, C.Mác đã phân tích vai trò, tầm quan trọng của tự nhiên đối với cuộc sống của con người. Ông viết: “Thứ nhất, giới tự nhiên là tư liệu sinh sống trực tiếp đối với con nguời, và thứ hai, giới tự nhiên là vật liệu, đối tượng và công cụ của hoạt động sinh sống của con người” [1,135]. Điều đó tức là con người sống dựa vào giới tự nhiên, giới tự nhiên cung cấp cho con người cả phương tiện lao động lẫn đối tượng tác động để đáp ứng nhu cầu sinh tồn của con người. Tư tưởng mang tính đột phá trong triết học Mác ở góc độ này, đó là C.Mác đã khẳng định giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người. “Giới tự nhiên - cụ thể là cái giới tự nhiên trong chừng mực bản thân nó không phải là thân thể của con người - là thân thể vô cơ của con người. Con người sống bằng giới tự nhiên. Như thế nghĩa là giới tự nhiên là thân thể của con người, thân thể mà với nó con người phải ở lại trong quá trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại” [1,135]. C.Mác - Ph.Ăngghen đều cho rằng, giới tự nhiên không chỉ là môi sinh, là kho tài nguyên mà nó còn là cơ thể của chính con người. Điều đó cũng cho thấy, con người không đứng đối lập với tự nhiên, mà là một bộ phận trong cái chỉnh thể rộng lớn đó. Do vậy, những tác động lên tự nhiên cũng gây ra những biến đổi trong chính đời sống con người xét cả về phương diện sinh học và xã hội.

Khi mới thoát thai từ động vật, con người gần như phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên. Lúc đó, tự nhiên “đối lập với con người như một sức mạnh hoàn toàn xa lạ, vạn năng và không thể đụng tới được; tức là cái mà với nó, con người quan hệ một cách hoàn toàn động vật, cái mà trước nó con người phải khuất phục giống như con vật; do đó là ý thức hoàn toàn động vật về tự nhiên ” [2,38]. Những thiên tai mà tự nhiên gây ra từng là sự đe dọa và gây kinh hãi đối với con người. Đứng trước thiên nhiên rộng lớn con người thấy mình thật nhỏ bé và bất lực. Sự hình thành và phát triển của giới tự nhiên cũng tuân theo những quy luật khách quan mà con người không thể can thiệp hay thủ tiêu bằng ý muốn chủ quan của mình. Khi con người chưa nắm bắt được những quy luật đó, thì những sức mạnh trong tự nhiên sẽ trở thành siêu nhiên chi phối con người và biến con người thành nô lệ cho chúng. Tuy nhiên, lịch sử nhân loại cũng cho thấy bằng hoạt động thực tiễn con người dần nắm bắt được những thông tin và từng bước đi vào bản chất của sự vật hiện tượng. Con người dần tách mình ra khỏi sự thống trị của tự nhiên và tạo những điều kiện, những tiền đề vật chất nâng mình lên trên tự nhiên mà không mất đi sự gắn bó máu thịt với cái nôi sinh học của mình. C.Mác khẳng định: “Giới tự nhiên cũng không phải là người chủ. Nhờ lao động, con người chinh phục giới tự nhiên càng triệt để hơn và nhờ những kỳ tích của công nghiệp mà những kỳ tích của thần thánh càng trở nên thừa” [1,140].

Trong quá trình sinh tồn, để duy trì sự sống và thỏa mãn những nhu cầu của cá nhân và cộng đồng, con người đã từng bước tác động lên tự nhiên và biến đổi chúng theo mục đích của mình. Cố nhiên, ở con vật cũng có những nhu cầu ăn, uống,…song nó chỉ biết kiếm tìm những vật có sẵn trong tự nhiên mà không thể tạo ra thêm một cái gì mới. Những sự tác động của con vật lên tự nhiên gây ra những biến đổi trong chừng mực nhất định hoàn toàn mang tính chất bản năng, nó không hề ý thức được điều đó. Còn con người, trong mỗi hoạt động vật chất của mình đều ghi dấu lên tự nhiên và xã hội bằng tính có ý thức và mục đích của mình. Nếu loài vật tàn phá một vùng nào đó mà chúng không hề hiểu việc làm của chính mình, thì con người khi dọn sạch dải đất trống gieo trồng ngũ cốc thì đã có sự tính toán được sản lượng thu hoạch được cuối mùa vụ là bao nhiêu. Hơn nữa, con người có khả năng nắm bắt được các nguyên lý vận hành của thế giới vật chất và biết vận dụng, sử dụng nó ngày một đúng đắn hơn, mang lại lợi ích nhiều hơn. Ph.Ăngghen viết: “Loài vật chỉ lợi dụng tự nhiên bên ngoài và gây ra những biến đổi trong giới tự nhiên đơn thuần do sự có mặt của nó thôi; còn con người thì do đã tạo ra những biến đổi đó, mà bắt giới tự nhiên phải phục vụ cho những mục đích của mình, mà thống trị tự nhiên” [3,654]. Lao động là hoạt động đầu tiên mang bản chất loài của con người, là cách thức con người thỏa mãn các nhu cầu của bản thân và xã hội. Sự phát triển của xã hội suy đến cùng là do những thành tựu mà con người và loài người đạt được trong lĩnh vực kinh tế thông qua hành vi lao động sản xuất của chính mình. Những giá trị văn minh mà con người và loài người đạt được bao chứa trong nó cả những kết quả chinh phục tự nhiên. Ở đây, chinh phục tự nhiên không mang nghĩa tiêu cực khi nó là phương tiện để con người từng bước giải phóng bản thân mình ra khỏi sự phụ thuộc, lệ thuộc tuyệt đối vào những sức mạnh của thiên nhiên. Cùng với quá trình lao động mà những tri thức của con người về thế giới ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn, đồng thời những nghiên cứu của khoa học công nghệ làm cho giới tự nhiên ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Nhìn vào lịch sử hình thành nhân loại thì cũng chính thông qua lao động mà các giác quan của con người ngày càng hoàn thiện, cấu trúc sinh học của cơ thể ngày càng phát triển. Như vậy, lao động không chỉ sáng tạo ra giới tự nhiên mà còn sáng tạo ra chính con người và lịch sử xã hội. Do đó, “toàn bộ cái gọi là lịch sử toàn thế giới chẳng qua chỉ là sự sáng tạo con người kinh qua lao động của con người, sự sinh thành của tự nhiên con người” [1,182]. Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử triết học, C.Mác - Ph.Ăngghen đã xây dựng nên phạm trù con người thực tiễn. Nó vượt qua con người ý thức của chủ nghĩa duy tâm. Nó cũng khắc phục được mặt hạn chế, phiến diện của chủ nghĩa duy vật siêu hình nhân bản với phạm trù con người sinh vật. Con người trong chủ nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác - Ph.Ăngghen biểu hiện ra vừa là một thực thể tự nhiên, vừa là một thực thể xã hội. Quan hệ song trùng ấy vừa chỉ ra cơ sở sinh học của con người, vừa khẳng định bản chất đặc thù của con người so với các loài khác.

Lịch sử văn hóa – văn minh, trong bản chất của nó là lịch sử phát triển của con người, mà trong đó chinh phục tự nhiên cũng là một phương tiện của sự phát triển [6]. Những thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp thế kỷ XIX đã thực tiễn hóa những tri thức khoa học vào cuộc sống mang lại năng suất lao động cao hơn; đồng thời từng bước giải phóng con người khỏi lao động cơ bắp nặng nhọc, nguy hiểm, khỏi sức mạnh mù quáng của tự nhiên. Con người càng chinh phục tự nhiên được bao nhiêu thì sự phụ thuộc của con người vào các thế lực siêu nhiên càng giảm đi bấy nhiêu. Đó là sự thắng lợi biểu thị sức mạnh và trí tuệ của con người, là sự thắng lợi của nền văn minh nhân loại. Tri thức khoa học, sự tôn trọng đối với tự nhiên đã đưa con người đi vào thế giới như một chủ thể tích cực và sáng tạo.

Tuy nhiên, các nhà kinh điển của triết học Mác luôn nhấn mạnh đến thái độ, mức độ, mục đích và tầm nhìn của con người khi khai phá tự nhiên. Chinh phục tự nhiên là một thước đo trong sự giải phóng con người, song điều đó không đồng nghĩa với việc coi con người là chúa tể của vũ trụ, chinh phục tự nhiên không đồng nghĩa với việc tàn phá tự nhiên. Mỗi sự tác động của con người lên tự nhiên đều để lại những dấu ấn riêng và tự nhiên sẽ có sự biến đổi theo những hình thù mà con người đã tác động vào nó. Về điều này, Ph.Ăngghen viết: “Chúng ta hoàn toàn không thống trị được giới tự nhiên như một kẻ xâm lược thống trị một dân tộc khác, như một người sống bên ngoài giới tự nhiên mà trái lại, bản thân chúng ta, với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc chúng ta, là thuộc về giới tự nhiên, chúng ta nằm trong lòng tự nhiên, và tất cả sự thống trị của chúng ta đối với tự nhiên là ở chỗ là chúng ta khác tất cả các sinh vật khác, là chúng ta nhận thức được quy luật của giới tự nhiên và có thể sử dụng được những quy luật đó một cách chính xác” [3,655]. Nếu những biến đổi trong tự nhiên mang tính tự phát, nếu những tác động của loài vật lên môi sinh hoàn toàn mang tính bản năng thì hoạt động của con người là hoạt động có ý thức, có mục đích và mang tính sáng tạo. Chúng ta không thể đối xử với tự nhiên theo kiểu nền “kinh tế cướp đoạt”, bởi như vậy tự nhiên sẽ “trả thù” lại chúng ta và đó sẽ là một thảm họa không chỉ gây ra đối với một vài thế hệ. Ph.Ăngghen viết: “Chúng ta cũng không nên quá tự hào về những thắng lợi của chúng ta đối với giới tự nhiên. Bởi cứ mỗi lần ta đạt được một thắng lợi, là mỗi lần tự nhiên trả thù lại chúng ta” [3,284]. Khi con người càng khẳng định vai trò chủ thể của mình trước tự nhiên bao nhiêu thì mức độ tự do của con người càng được nới rộng bấy nhiêu. Nhưng nếu con người khai thác tự nhiên như một tên độc tài, thì cái tưởng như là tự do khi con người đạt được những thắng lợi trong quá trình chinh phục tự nhiên lại trở thành nguyên nhân đẩy con người rơi vào tình trạng nô lệ. Tất yếu và tự do sẽ còn song hành với nhau, con người sẽ không bao giờ đạt đến chỗ hiểu cái tất yếu một cách tuyệt đối, không bao giờ có thể thực hiện quyền hành với tự nhiên một cách tuyệt đối. Tự do của con người không thể là sự cắt đứt sợi dây liên hệ với tự nhiên. Tự do là sự nhận thức và làm theo những quy luật tất yếu khách quan. Nhận thức là một quá trình lâu dài và liên tục. Bản thân một cá nhân, một thế hệ người ở một giai đoạn lịch sử nhất định không thể nhận thức được đầy đủ, toàn diện và chính xác toàn bộ giới tự nhiên. Đây là quá trình của các thế hệ người nối tiếp nhau trong lịch sử. Mỗi thành tựu mà thế hệ trước đạt được là cơ sở để thế hệ sau tiếp tục tìm tòi, phát triển. Đó cũng là quá trình khám phá ra con đường đưa nhân loại từng bước tiến tới tự do, thoát khỏi sự thống trị của cái tất yếu.

Từ khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập cho đến nay đã hơn năm thế kỷ. Những thành tựu mà nhân loại đạt được dưới chủ nghĩa tư bản là vô cùng to lớn. Song quan điểm duy kinh tế, quan điểm coi con người là kẻ thống trị muôn loài của một thời kỳ lịch sử đã gây ra những hậu quả khôn lường đối với tự nhiên cũng đồng thời là hậu quả khôn lường đối với xã hội, với đời sống của con người. Ngay từ thế kỷ XIX, Ph.Ăngghen đã nói: “Trong phương thức sản xuất hiện nay, người ta chỉ chú trọng chủ yếu đến việc làm thế nào cho giới tự nhiên và xã hội đem lại những kết quả gần nhất, rõ ràng nhất” [3,658] - tức là lợi nhuận, mà không cần quan tâm đến hậu quả do những hành động đó gây ra. Ph.Ăngghen đã luận giải điều này, khi nói về việc đốt rừng của những người chủ đồn điền Tây Ban Nha ở Cu Ba trên những triền núi và lấy số phân tro đủ để bón cho cả một loạt cây cà phê, đem lại một số thu hoạch lớn; thì họ không nghĩ đến việc, sau này những trận mưa rào ở vùng nhiệt đới sẽ cuốn sạch lớp đất trên mà không có gì che chở và hậu quả là để lại những lớp đất đá trơ trụi, khô cằn. Hay những người miền núi nước Ý, khi họ phá hoại các đám rừng thông trên sườn phía Nam dải Anpơ thì họ không biết rằng, họ đã phá hoại việc chăn nuôi của người dân trên núi cao; và họ càng không thể biết như thế là làm cho các con suối trên núi bị khô cạn suốt một phần lớn thời gian trong năm. Khi mùa mưa đến, nước lũ của các khe suối lại tràn xuống dữ dội, làm ngập cả đồng bằng…Ở đây, Ăngghen muốn nói đến mối quan hệ biện chứng của các sự vật hiện tượng, các quá trình diễn ra trong tự nhiên. Trong thế giới thực tại, không có gì là diễn ra một cách đơn độc mà chúng luôn có sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau. Sự đa dạng sinh học là cái nôi bền vững cho sự phát triển của môi sinh. Hoạt động của con người sẽ làm cho giới tự nhiên phong phú hơn, đa dạng hơn hoặc sẽ làm cho giới tự nhiên cạn kiệt và suy thoái. Điều đó tuỳ thuộc vào mục tiêu phát triển của xã hội và mức độ nắm bắt các quy luật tự nhiên của con người. Con người càng thu hẹp và tách mình ra khỏi tự nhiên thì con người lại càng đẩy mình vào sự nguy hiểm của một môi trường sống mất cân bằng.  Năm 1854, Tổng thống thứ 14 của nước Mĩ là Phrank-Klin Pi-ơ-xơ tỏ ý muốn mua đất của người da đỏ. Thủ lĩnh Xi-át-tơn đã gửi một bức thư trả lời, trong đó có đoạn: “Con người là gì, nếu cuộc sống thiếu những con thú? Và nếu chúng ra đi, thì con người cũng sẽ chết dần chết mòn vì nỗi buồn cô đơn về tinh thần, bởi lẽ điều gì sẽ xảy đến với con thú thì cũng chính xảy ra đối với con người. Mọi vật trên đời đều có sự ràng buộc”. “Đất là Mẹ. Điều gì xảy ra với đất đai tức là xảy ra đối với những đứa con của đất. Con người chưa biết làm tổ để sống, con người giản đơn là một sợi tơ trong cái tổ sống đó mà thôi. Điều gì con người làm cho tổ sống đó, tức là làm cho chính mình” [7].  Con người, cây cỏ, muông thú, đất đai, ánh sáng, dòng nước…đều nằm trong một chỉnh thể thống nhất. Con người sẽ mất dần đi sự an toàn về môi trường sống nếu con người cố tình phá hủy những sợi dây ràng buộc với nó.

Từ khi triết học Mác ra đời đến nay cũng đã hơn 150 năm. Thế giới đã xảy ra biết bao sự kiện; những đổi thay về lịch sử xã hội khác rất nhiều so với thời C.Mác - Ph.Ăngghen còn sống. Thời đại của C.Mác - Ph.Ăngghen sống, những vấn đề về môi trường chưa được đặt ra một cách cấp bách, bức xúc như hiện nay. Các ông chưa biết đến hiệu ứng nhà kính, lỗ thủng tầng ôzôn, mưa axít, sa mạc hóa,..nhưng các ông đã đưa ra những nguyên tắc phương pháp luận chỉ dẫn cách ứng xử cho con người trong mối quan hệ với tự nhiên - đó là mối quan hệ hài hòa, bình đẳng, là mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời. Mỗi khi con người tàn phá tự nhiên cũng là khi con người tàn phá chính bản thân mình; mỗi khi con người phá hoại sự cân bằng sinh thái là lúc con người tự huỷ hoại sự sống của mình. Đó là sự thật hiển nhiên.

Tuy nhiên, ở đây cần chú ý một vài điểm về sự nhận thức của con người đối với sự thật trên như sau:

Thứ nhất, ngày nay khoa học công nghệ đang dần trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, nó đang tạo ra những biến đổi to lớn, tích cực trong đời sống xã hội. Xét trên phương diện nhận thức, nó đã cũng cấp cho con người một lượng thông tin sâu rộng về sự vận động, phát triển của thế giới vật chất, mang lại cho con người một công cụ hữu hiệu để thích ứng với những sự thay đổi của tự nhiên. Nhưng thực tế cho thấy, dường như con người vẫn còn thờ ơ trước những thông tin mà khoa học mang lại về những biến đổi của trái đất do ảnh hưởng khí hậu gây ra. Xin được trích ra đây một ví dụ về một trong những thảm họa khủng khiếp nhất của tự nhiên ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống con người, đó là động đất. Với một công cụ rất nhạy bén là máy đo địa chấn, các nhà khoa học có thể thăm dò thông qua toàn bộ bề mặt trái đất. Vụ phun trào núi lửa Nevado del Ruiz tại Colombia vào ngày 13/11/1985 đã trở thành thảm họa núi lửa giết chết nhiều người nhất trong thế kỷ XX. Trước khi núi lửa phun trào, cục địa chất Hoa Kỳ đã đưa ra dự báo căn cứ trên những dấu hiệu về địa chất và đề nghị di tản khu dân cư khoảng hai mươi chín ngàn người xung quanh. Nhưng sự liên lạc giữa các nhà khoa học và chính quyền địa phương thất bại, người ta không tin núi lửa có thể phun trào khi họ nhìn thấy bề ngoài là không có gì khả nghi. Thiệt hại về vật chất vào khoảng một tỷ USD – tương đương 20% tổng sản phẩm quốc dân của Colombia vào thời điểm đó và với 22000 người bị thiệt mạng là một nỗi ám ảnh đối với con người trong một thời kỳ dài sau đó. [5]. Sự hoạt động của núi lửa hay sóng thần sẽ còn tồn tại cũng như rất nhiều những hiện tượng tự nhiên khủng khiếp khác do chính những kiến tạo địa chất quy định không mất đi. Chúng ta không thể làm biến mất nhưng chúng ta sở hữu những kiến thức cần thiết, cảnh báo khi thiên tai xảy ra. Nhưng chỉ có một câu hỏi chưa có câu trả lời là người ta có tin những cảnh báo đó hay không?

Thứ hai, Một nghịch lý là các nước tư bản phát triển hiện nay là cái nôi của các thành tựu khoa học công nghệ, mang lại những đột phá trong sự phát triển của cả nhân loại nói chung. Nhưng cũng chính ở các nước tư bản này, lượng chất thải công nghiệp khổng lồ lại là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến khí hậu toàn cầu lớn nhất. Nhìn nhận, đánh giá khách quan những giá trị mà văn minh phương Tây mang lại, đồng thời khắc phục những hạn chế, khiếm khuyết để tìm ra triết lý phát triển bền vững đang là hướng đi của rất nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Thứ ba, Không thể phủ nhận vai trò to lớn của khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin đã cung cấp, phục vụ cho nhu cầu nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người trong mối quan hệ hài hòa với tự nhiên. Song cần phải khẳng định, để khai thác tài nguyên hợp lý, để bảo vệ môi trường sống của con người, để nâng cao ý thức và trách nhiệm của cá nhân và cộng đồng với môi sinh của mình thì khoa học công nghệ không phải là chìa khóa vạn năng, là nhân tố duy nhất; mà cần chú ý đến vấn đề đạo đức môi trường, đến thể chế chính trị, đến văn hóa môi trường,… Có như vậy, mới tạo ra được những giải pháp đúng đắn, hiệu quả, nhân văn mang lại những tác động tích cực trong việc duy trì sự phát triển sự sống một cách bền vững.

Từ khi con người xuất hiện, xã hội được hình thành thì sự tồn tại và phát triển của các cộng đồng dân cư đã gắn liền với giới tự nhiên, với những điều kiện vật chất nhất định. Những biến đổi khí hậu được cảnh báo trong những năm gần đây như một lời kêu gọi con người hãy cứu lấy trái đất, cứu lấy sự sống cho các thế hệ mai sau. Đồng thời, nó cũng là sự cảnh báo giới hạn chịu đựng của môi sinh dưới sự tác động của con người. Tự nhiên - con người - xã hội là một thể thống nhất không thể tách rời. Triết học Mác đề cao mối quan hệ hài hòa giữa con người và tự nhiên dựa trên thái độ tôn trọng và sự hiểu biết của con người về giới tự nhiên đó. Sự tiến bộ của xã hội phải lấy phát triển con người làm mục tiêu; sự phát triển bền vững của loài người phải lấy sự phát triển đa dạng của giới tự nhiên làm nền tảng. Chân lý đó sẽ còn giá trị cho đến mãi về sau.  

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. C.Mác - Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, t42, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. C.Mác - Ph.Ăngghen (1977), “Phoi-ơ-bắc sự đối lập giữa quan điểm duy vật chủ nghĩa và quan điểm duy tâm chủ nghĩa”, Nxb Sự thật, Hà Nội.

3. C.Mác - Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, t20, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. GS.TS Phạm Xuân Nam (chủ biên) (2008),  “Triết lý phát triển ở Việt Nam mấy vấn đề cốt yếu”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

5. Phương Nam Phim (2011), Trái đất nổi giận (DVD), Cục điện ảnh

  6. Hồ Sỹ Quý (2007), “ Con người và phát triển con người”, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

7.http://www.wattpad.com/1025326-b%E1%BB%A9c-th%C6%B0-c%E1%BB%A7a-th%E1%BB%A7-l%C4%A9nh-da-%C4%91%E1%BB%8F?p=1

 

Marxist philosophy of relations between the human and the nature

                                                                 Trịnh Thị Nghĩa

          Faculty of Foundation Studies

College of Sciences - Thai Nguyen University

ABSTRACT

Marxist philosophy affirms the dialectical relationship between humans and the nature. The author analyzes the role of nature to men and society as well as the people’s impacts on the nature through their own practical activities. K. Marx and F. Engels offer a philosophy of nature conquering to ensure the sustainable development of the nature and humans.

 

  Trịnh Thị Nghĩa

Đ/c: Khoa Khoa học cơ bản

 Trường ĐH Khoa học -  ĐHTN

ĐT: 0915 300512

 

 

 

 

Khoa Khoa học cơ bản

(0208).3648.433

Liên kết website

Thống kê website

Lượt truy câp: 3757896
Trong ngày:
Đang online: 20