Phân tích bài Vội vàng để chứng minh nhận định:tiêu chuẩn vĩnh cửu của thơ ca là cảm xúc
[ 12/03/2018 12:00 PM | Lượt xem: 305 ]

Đề bài:

Nhà thơ Bằng Việt cho rằng: “tiêu chuẩn  vĩnh cửu của thơ ca là cảm xúc”.

Anh/ chị hiểu ý kiến trên như thế nào? hãy phân tích bài Vội Vàng – Xuân Diệu để làm sáng tỏ ý kiến trên.

Bài làm:

Đã có ý kiến cho rằng: “thơ ca là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tinh thần. Do đó không đơn giản, mà cũng không thần bí thiêng liêng”

Đúng như vậy, mỗi bài thơ là một đứa con tinh thần do nhà thơ sáng tạo ra. Đứa con đó là sự kết tinh của tư tưởng và cảm xúc, tạo nên cảm xúc có mạnh mẽ, mãnh liệt thì bài thơ đó mới có giá trị. Vì vậy thơ chính là hiện thân của cảm xúc. Như Diệp Tiến đã từng nói: “thơ là tiếng lòng”. Bàn về điều này nhà thơ Bằng Việt đã cho rằng “tiêu chuẩn vĩnh cửu của thơ ca là cảm xúc” và bài thơ Vội vàng của thi sĩ Xuân Diệu chính là minh chứng rõ nét nhất và cho ý kiến của Bằng Việt.

Huy Trực đã từng nói: “thơ là rượu tựa thế gian” mà đã là rượu thì phải say hay chính cái men rượu làm người ta say, chính cái là cái cảm xúc trong thơ làm đắm chìm lòng người đó chính là tiêu chuẩn vĩnh cửu để đánh giá thơ, mà Bằng Việt đã nhận định tiêu chuẩn là thước đo chuẩn mực để đánh giá một đối tượng. Có nhiều loại tiêu chuẩn khác nhau và các tiêu chuẩn có thể thay đổi theo thời gian thế nhưng “tiêu chuẩn vĩnh cửu” là cái thước đo chuẩn mực có giá trị bất biến đúng với mọi thời đại.

Cảm xúc chính là những cung bậc tình cảm, cảm xúc con người. Vậy bản chất ý kiến của Bằng Việt là sự khẳng định thước đo để đánh giá giá trị tác phẩm thơ ca ở mọi thời đại, là yếu tố tình cảm, cảm xúc. Từ xưa đến nay cảm xúc luôn là kim chỉ đường cho mỗi bài thơ chỉ có cảm xúc chân thành mới là yếu tố níu giữ trái tim người đọc, “bài thơ chính là tâm hồn” – M. Gorki. Nói tiêu chuẩn vĩnh cửu của thơ ca là cảm xúc quả không sai bởi đó chính là sự xuất phát từ đặc trưng của thơ ca, thơ là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc. Nếu không có cảm xúc thì người nghệ sĩ không thể sáng tạo nên những vần thơ hay, ngôn từ chỉ là những xác chữ vô hồn  nằm thẳng đó trên trang giấy, nhiệm vụ của người sáng tác thơ là phải thổi vào thơ những cảm xúc, tình cảm chân thành. Nói như Ngô Thì Nhậm “thi sĩ phải xúc động  hồn thơ cho ngọn bút có thần”.

Thơ là người thư kí trung thành của trái tim, văn học phản ánh đời sống của con người. Với thơ ca cuộc sống không phải chỉ là hiện thực xã hội bên ngoài mà còn là đời sống tâm hồn tình cảm phong phú của chính nhà thơ, không phải những lời giáo huấn khô khan, những triết lý khó hiểu. Thơ cũng là hiện thân của cuộc đời, nhưng với những cảm xúc của nhà thơ nó trở thành những bản nhạc đi vào tâm trí người ta nhẹ nhàng và du dương. Như Xuân Diệu đã từng nhận định: “thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ nữa”. Cảm xúc trong thơ cũng không phải thứ cảm xúc nhàn nhạt, đó là tình cảm ở mức độ mãnh liệt nhất, thôi thúc người nghệ sĩ cầm bút sáng tác.

Nhà thơ phải sống thật sâu với cuộc đời mới có thể viết lên được những vần thơ có giá trị của sự trải nghiệm. Như Tố Hữu đã từng nói: “thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã tràn đầy”

Nói thơ có tiêu chuẩn vĩnh cửu luôn là cảm xúc bởi còn xuất phát từ quy luật tiếp nhận văn học, trong đó có thơ ca. bạn đọc tìm đến với thơ là tìm đến tiếng nói đồng điệu, đi tìm hồn mình trên trang viết của mỗi nhà thơ. Nói như Tố Hữu: “thơ là một điệu hồn đi tìm những hồn đồng điệu”. Vì vậy nếu những tình cảm, cảm xúc được bộc lộ trong thơ không chân thành sâu sắc ám ảnh thì sẽ không thể tạo được những sự đồng điệu ở tác giả. Cũng có nghĩa là thơ sẽ thiếu sức sống. Như vậy với tất cả những lý do trên, cảm xúc chính là yếu tố chính để tạo nên một tác phẩm thơ hay đích thực tồn tại mãi với thời gian. Và bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu đáp ứng đầy đủ những yêu cầu đó.

Xuân Diệu một nhà thơ lớn có đóng góp đáng kể trong phong trào thơ mới, được Hoài Thanh đánh giá là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Thơ của ông nồng nàn, tha thiết, khao khát giao cảm với đời một cách mãnh liệt. Nhưng bên cạnh đó cũng là một sự hoài nghi, trăn trở hay sự buồn bã thậm chí là cô đơn. Thơ của ông luôn giục giã, cuống quýt người đọc về lối sống, tận hưởng tận hiến. Và “Vội Vàng”, trích từ tập “thơ thơ” là tác phẩm tiêu biểu cho sáng tác của ông trước cách mạng. Đó là một cách cảm, cách nghĩ mới nhất mà chưa tìm thấy ở bất kỳ một bài thơ nào, một giai đoạn nào.

Ấn tượng đầu tiên của độc giả về bài thơ là mạch cảm xúc sôi nổi, mãnh liệt tuôn trào với một cuộc sống đến thiết tha cuồng nhiệt. Ngay mở đầu bài thơ đã cho ta cảm thấy được điều đó

“Tôi muốn tắt nắng đi

cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

cho hương đừng bay đi”

Tắt nắng và buộc gió vốn là một công việc bất biến của tạo hóa, của ông trời, thế mà giờ đây Xuân Diệu muốn tước đoạt quyền tạo hóa đó, muốn làm thay công việc của ông trời, một ước muốn táo bạo, ngông cuồng, phi lý nhưng lại làm cách khẳng định cái tôi sâu sắc mãnh liệt. Cái tôi muốn tước quyền tạo hóa, muốn tắt nắng, buộc gió để lưu lại mãi hương sắc của trần gian và đó còn là ước muốn của một trái tim yêu đời mãnh liệt thiết tha.

Vậy tại sao Xuân Diệu lại có một ước muốn như vậy. Điều đó đã được tác giả lý giải bằng một bức tranh của thế giới xung quanh như một thiên đường trên mặt đất với cảm xúc say mê bằng cặp mắt xanh non biếc dờn. Xuân Diệu đã đem đến cho người đọc một bữa tiệc trần gian, mà ở đó cái gì cũng đẹp, cũng Xuân cũng non mơn mởn tình tứ quyến rũ người đọc.

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật

Này đây hoa của đồng nội xanh rì

này đây là của cảnh tơ phơ phất

Của yến anh này đây khúc tình si

và này đầy ánh sáng chớp hàng mi

mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa

tháng giêng ngon như một cặp môi gần”

Chưa bao giờ trong thi ca Việt Nam, mùa xuân lại hiện ra sinh động như thế, nó là sự hiện hữu của từng chi tiết: đó là ong bướm của tuần tháng mật, đó chính là lúc nó say mê tìm hoa, hút nhị, bay nhẹ nhàng trên những cánh hoa mỏng manh. Cho ta một cái nhìn thích thú, tuần tháng mật như tuần trăng mật của người đời – đó là lúc đôi lứa hạnh phúc nhất say đắm nhất. Qua đây ta cũng thấy được cái nhìn của Xuân Diệu về một cuộc sống say mê và mong muốn hạnh phúc, tiếp đó là hoa của đồng nội xanh rì –  trên cánh đồng xanh một màu xanh non mát lành là những bông hoa mỏng manh kích thích thị giác của ta. Rồi đến lá của cành tơ phất phơ trước gió, cành tơ tức là cành non.

Cái nhìn của Xuân Diệu chỉ hướng về những cái gì đó xanh tươi nên cành lá cũng thật đẹp và sống động. Trên cái nền như tranh thêu ấy, cất lên tiếng hát du dương của yến anh như một khúc tình si, càng khiến cho ta càng thêm say đắm, thêm mơ màng. Một buổi sớm ánh sáng như đôi hàng mi của người con gái thật đẹp, quyến rũ và càng hấp dẫn hơn khi có thêm thần vui hằng ngày gõ cửa như mời gọi nhà thơ, mời gọi mọi người và để cho độc giả thấy tháng giêng quyến rũ ra sao Xuân Diệu đã viết: “tháng giêng ngon như một cặp môi gần” ở đây tác giả không hưởng thụ thiên nhiên bằng thị giác, bằng thính giác nữa mà hưởng thụ bằng vị giác “ngon” đặc biệt hơn tháng giêng lại như cặp môi gần của một người thiếu nữ đương xuân đang tràn trề tình yêu và tuổi trẻ. Thơ xưa lấy thiên nhiên làm vẻ đẹp đó là chuẩn mực của con người như Nguyễn Du đã từng viết

“Vân xem trang trọng khác vời

khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang

hoa cười ngọc thốt đoan trang

mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”.

(Truyện Kiều)

Nhưng ở đây lại khác, Xuân Diệu lại lấy con người làm vẻ đẹp cho thiên nhiên. Tháng giêng của mùa xuân không sao kể siết chỉ có thể nói bằng cách là quy về tình cảm con người để tạo sự hữu hình gần gũi với độc giả. Xưa nay ta cứ nghĩ nghĩ Thiên Đường ở một nơi rất xa xôi như cõi niết bàn, nhưng bằng một cặp mắt yêu đời, yêu cuộc sống, khát khao giao cảm với đời, với cuộc sống nên Xuân Diệu đã chỉ rõ cho chúng ta thấy Thiên Đường ở không xa nó ở ngay trong cuộc sống. Điều quan trọng là ta có biết hưởng thụ nó không. Chắc vì mùa xuân đẹp nên trong Xuân Diệu lúc nào cũng là xuân  chăng?

“Xuân ở giữa mùa đông khi nắng hè

giữa mùa hè khi trời biếc

sau mưa giữa mùa thu khi gió sáng bay vừa

lùa thanh sắc ngẫu nhiên trong áo rộng”.

Xuân Diệu thiết tha với mùa xuân thấy và chỉ rõ cho mọi người thấy Thiên Đường ở mặt đất, bằng con mắt yêu đời điều đó thật đúng với nhận định của Hoài Thanh “ Xuân Diệu đặt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”. Trước cảnh trời đẹp như vậy nên Xuân Diệu nuối tiếc thời gian, sẽ trôi không ngừng trong khi tuổi xuân của con người là hữu hạn.

“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua

xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già

Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất

Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật

Không cho dài thời trẻ của Nhân Gian

Nói làm chi răng Xuân văn tuần hoàn

Nếu tuổi trẻ Chẳng hai lần thắm lại

Một cảm giác thật mới mẻ nhưng cũng thật đúng đắn, Xuân đương tới tức là nó chưa tới mà đã cảm nhận nó đương qua, xuân còn non mà đã cảm nhận nó sẽ già. Đúng thật vậy, bước đi của thời gian sẽ phá hủy mọi thứ và để lại sau đó là một quá khứ. Xuân Diệu đã bộc lộ nỗi lòng của mình thế nhưng lượng trời chật không cho kéo dài tuổi trẻ nhân gian. Ở đây nhà thơ đã lấy cái hữu hạn để so sánh với cái vô cùng, vô tận đó là những năm thậm chí có thể tính bằng tháng của tuổi trẻ con người, với thời gian của vũ trụ bất biến lâu dài. Ông quan niệm rằng tuy xuân tuần hoàn nhưng tuổi trẻ không hai lần thắm lại, một giây phút trôi đi là đang từ biệt một quãng đời của mình. Trong đó điều này khác với quan niệm của nhà nho xưa khi cho rằng “thời gian là một chu trình tuần hoàn, khép kín đêm hết, ngày sang. Đông qua xuân tới” con người là một phần của thiên nhiên vũ trụ vì vậy họ không sợ tuổi già và cái chết luôn thanh thản, ung dung, tự tại. Cách suy nghĩ về thời gian tuyến tính của Xuân Diệu quả là một cách nhìn mới sáng tạo mới và cảm nhận mới.

Vậy với cái cách nhìn đầy mất mát như vậy, Xuân Diệu đang vui bỗng nhiên lại nhường chỗ cho sự nghi ngờ và buồn bã,

“Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi

Nên Bâng Khuâng tôi tiếc cả đất trời”

Còn đối với thiên nhiên, cảnh vật dường như cũng nhuộm màu sắc buồn bã, sợ hãi giống Xuân Diệu. Nguyễn Du đã từng viết

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?

(Truyện Kiều)

Và cảnh trong thơ cũng vậy

“Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi

khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt

Con gió xinh thì thào trong lá biếc

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa

Chẳng bao giờ ơi chẳng bao giờ nữa

Mau đi thôi mưa chưa ngã chiều hôm”

Nhà thơ đã cảm nhận mùi chia lìa ở khắp mọi nơi, trong mọi vật, mọi cảnh. Dường như Xuân Diệu thức tỉnh về thời gian trong tâm tư, tình cảm của con người nỗi lo sợ trước viễn cảnh chia lìa như có lần chính Xuân Diệu đã từng chứng kiến

“Đương lúc hoàng hôn xuống

Là giờ Viễn Khách đi

Nước được màu ly biệt

Trời vương hương Biệt ly

(Viễn Khách)

Và với bước đi của thời gian, Thời tiễn biệt than thầm khắp núi sông, nỗi oán trách của con gió xinh trong lá biếc, nỗi sợ hãi của bầy chim đang reo vui. Mọi thứ, mọi vật đang sợ bước đi của thời gian. Và từ đó nhà thơ đã hiểu ra, và thúc giục mọi người rằng

“ mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm”

Đó là lời kêu gọi của tình yêu, của đam mê và khát vọng vượt ra thực tại đáng buồn để tìm đến mùa xuân. Chính vào lúc tưởng như dợn ngợp của sự hoang mang, nhà thơ đã vượt lên tìm về ý nghĩa của sự sống khi mùa xuân chưa hết. Với những điều đó nên Xuân Diệu khát khao giao cảm trực tiếp và tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp của cuộc sống trần thế

“Ta muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước và cây và cỏ dại

Cho  chếnh choáng  mùi thơm

Cho đã đẩy ánh sáng

Cho no nê thanh sắc của thời tươi

Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”.

Tưởng chừng những cái ta muốn là sự lặp lại cảm xúc đầu bài thơ, nhưng đi liền với cái cảm giác hành động ôm, riết, say,hôn, chếnh choáng, đã đầy, no nê, cắn…….. cảm xúc  đã phát triển đầy đủ, trẻ trung trong trạng thái, ngây ngất từ thái độ.

Ban đầu còn chút e dè đến thái độ và Vội Vàng có chút tham lam là cả một sự chuyển hướng của suy tư. Xuân Diệu không chờ đợi mà muốn chiếm lĩnh sự sống thu vào đầy đủ Vẻ Đẹp Cuộc sống. Sống thành thật với chính mình, sống hết mình, khát khao được sống, được yêu, được giao cảm cùng vũ trụ và cuộc đời. Xuân Diệu đã chiến thắng thời gian, vẫn còn nguyên sức sống, dồi dào của tuổi 20

“Trong hơi thở trót dâng trời đất

cũng vẫn si tình đến ngất ngư

( Không đề)

Bên cạnh nội dung mới mẻ và sâu sắc, tác giả đã lựa chọn hình thức nghệ thuật phù hợp để bộc lộ cảm xúc. Thể thơ tự do với các dòng thơ dài ngắn, không đều nhịp, thay đổi liên tục phù hợp diễn tả cảm xúc dâng trào, sôi nổi của thi sĩ. Bài thơ có cấu trúc theo lối kết luân, vừa có sự hấp dẫn của cảm xúc mãnh liệt, cháy bỏng, vừa lôgic chặt chẽ. Ngôn ngữ thơ vừa chính xác, vừa mới mẻ, táo bạo sử dụng nhiều động từ mạnh có tính từ miêu tả kết hợp với các biện pháp tu từ như so sánh, điệp từ, liệt kê, bút pháp tương giao ………..Ngoài ra hình ảnh thơ mới lạ, gợi cảm tất cả làm nên sự thành công của bài thơ.

Như vậy qua bài thơ Vội vàng ta thấy ý kiến của Bằng Việt hoàn toàn đúng đắn. Nó không chỉ đúng với mọi thời đại, mọi dân tộc mà còn đúng với mọi  hình thức. Bằng Việt chỉ đề cao cảm xúc chứ không hề tuyệt đối hóa vai trò của cảm xúc, coi nhẹ tài năng của người cầm bút. Nếu chỉ có cảm xúc tuôn trào mà không có tài năng thơ ca đủ chín độ, câu chữ tứ thơ non nớt, vụng về thì cũng không thể có thơ hay và cảm xúc của thi sĩ không thể chuyển tải trọn vẹn đến người đọc.  Ý kiến của Bằng Việt có giá trị với cả hoạt động sáng tác và tiếp nhận thơ ca, thi sĩ trước hết phải có tâm hồn giàu cảm  xúc, sống sâu sắc trọn vẹn với từng khoảnh khắc cuộc đời, để có thể có những cảm xúc mãnh liệt, dồi dào trên mỗi trang thơ

“Có những phút ngã lòng

Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy”

(thơ đề trên Thơ)

Còn độc giả đến với thơ ca trước hết cần đến lòng mình để cảm nhận những nỗi niềm tâm sự người nghệ sĩ gửi vào trong trang viết. Vội vàng của thi sĩ Xuân Diệu là tác phẩm hay minh chứng thuyết phục cho ý kiến của Bằng Việt, với một dòng cảm xúc dạt dào lai láng “vội vàng” như một khúc ca thúc giục mọi người sống nhanh, sống có ý nghĩa để sau này nhìn lại ta không phải nuối tiếc về những năm tháng đã sống hoài, sống phí. Có lẽ đây sẽ là nguyên nhân khiến “Vội Vàng” đi vào lòng người đọc mọi thời đại, và có ý nghĩa bây giờ và cả mai sau./.

< http://vanhay.edu.vn/phan-tich-bai-voi-vang-de-chung-minh-nh >

Khoa Khoa học cơ bản

(0208).3648.433

Liên kết website

Thống kê website

Lượt truy câp: 3757896
Trong ngày:
Đang online: 18