Xuân Diệu Được coi là nhà thơ mới nhất trong
những nhà thơ mới.Ông là nhà thơ trữ tình lãng mạn, luôn khát khao giao
cảm với đời đến cuống quýt, cuồng nhiệt. Bài thơ Vội vàng tập trung cao nhất
cái khát vọng mãnh liệt ấy. Xuân Diệu đặt khát vọng giao cảm giữa tuổi trẻ và
xuân tình, qua đó bộc lộ một xúc cảm triết học, một quan niệm nhân sinh mới mẻ,
hiện đại.
Xuân Diệu yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp đến mãnh liệt đến cường
tráng nhưng bên trong những vần thơ của ông vẫn gây cho người đọc một cảm giác
chênh vênh, hụt hẫng . Bởi tình yêu luôn gắn với nỗi đau, niềm vui song song
với nỗi buồn, bởi niềm vui đó rồi cũng phải hết, không thể tồn tại vĩnh hằng
được. Bằng cái nhìn mổ xẻ, ta cũng thấy lòng khát sống, ham đời trong Vội vàng
bị chẻ đôi thành hai tầng bậc: Một cách cảm thụ thế giới mang tính bi kịch và
một cách ứng xử trước thế giới mang tính tích cực.
Nhà thơ cảm thấy yêu cuộc sống này lắm, muốn níu giữ nhưng nhìn
lại, tác giả lại nhận thấy một bi kịch sự sống. Trong sự cảm thụ thế giới của
Xuân Diệu, cuộc sống được phát hiện ở tính bi kịch. Bi kịch nay là sự giằng xé
giữa tình yêu và nỗi đau, giữa cảm xúc và nhận thức.
Tình yêu cuộc sống này tràn ngập trong huyết mạch của nhà thơ, nhà
thơ nhận thấy cuộc sống nơi mình đang song như một thiên đường. Có một câu hỏi
lớn từng thôi thúc loài người tìm lời giải đáp: Vẻ đẹp cuộc sống ở đâu? Đạo
Thiên Chúa tìm vẻ đẹp ở thiên đường cao cả. Đạo Phật tìm vẻ đẹp ở cõi Niết bàn
bình an. Còn Xuân Diệu, thiên đường nằm ngay trên mặt đất:
Cửa ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Cuộc sống thật tươi đẹp, thật đáng sống biết bao khi mỗi buổi sáng
thần Vui hằng gõ cửa. Điệp ngữ: “Này đây” lặp bốn lần là tiếng reo vui đầy kinh
ngạc của tác giả vì liên tiếp phát hiện ra những vẻ đẹp kì lạ của cuộc sống.
Sau mỗi tiếng reo vui, cuộc sống hiện ra, giản dị mà đắm say: cái đắm say tình
tứ của ong bướm, yến anh; cái đắm say bát ngát sắc xanh của đồng nội; cái đắm
say non tơ của cành lá… Từ những hình ảnh cụ thể, tiếng reo vọt trào lên một
cảm xúc tổng hợp và lạ lùng trước thiên nhiên:
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Đây được coi là câu thơ có một không hai trong thơ ca Việt Nam,
tác giả đã dùng cái vật nhìn thấy để so sanh với cái vô hạn của thời gian. Câu
thơ đặc sắc lấp lánh ba vẻ đẹp độc đáo. “Tháng giêng” là khởi đầu của một năm,
khởi đầu của mùa xuân – mùa xuân tươi non mơn mởn là biểu tượng vẻ đẹp cuộc
sống. Hình ảnh “cặp môi gần” gợi làn môi tươi hồng của thiếu nữ đang hé mở đợi
chờ. Phép so sánh đã hội tụ mùa xuân với tuổi trẻ thành vẻ đẹp tổng hợp của
cuộc sống. Quan niệm thẩm mỹ mới mẻ của Xuân Diệu đã đưa cặp môi thiếu nữ vào
trung tâm vũ trụ, con người thành chuẩn mực vẻ đẹp của thiên nhiên. Một Xuân
Diệu táo bạo, mới lạ nữa xuất hiện trong từ “ngon” đầy cảm giác nhục thể, tình
yêu cuộc sống được huy động cả linh hồn lẫn thể xác. Vẻ đẹp của khổ thơ thật
trẻ, thật nồng.
Thơ Xuân Diệu không bao giờ bình yên vì tình yêu luôn vấp phải nỗi
đau. Mạch thơ vui đang dào dạt chảy bỗng vấp phải một dấu chấm cắt giữa câu
thơ:
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.
Cuộc sống tươi đẹp, ý nghĩa bao nhiêu thì nhà thơ lại cảm thấy
minh rơi vào tấn bi kịch bấy nhiêuBi kịch cuộc sống dồn tụ trong câu thơ. Bi
kịch xuất phát từ một phát hiện triết học về thời gian:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Đây là quan niệm chưa từng có trong cái nhìn truyền thông. Thời
gian trung đại vốn được quan niệm là thời gian tuần hoàn, thời gian lặp lại
tuần tự (Tháng chạp là tháng trồng khoai – tháng giêng trồng đậu, tháng hai
trồng cà). Nhịp thời gian muôn đời không đổi tạo nên thế quân bình nội tâm
khiến con người ung dung, bình tĩnh đến chậm chạp. Thời gian hiện đại khác hẳn,
là thời gian tuyến tính (một đi không trở lại), nên thời gian tự hủy diệt trong
lẽ tồn vong ngắn ngủi, gấp gáp. Nhận thức ấy được Xuân Diệu thể hiện bằng những
cặp từ tới – qua, non – già… cuộc sống vận động phát triển trong quá trình vừa
khẳng định vừa phủ định, cái phủ định nằm ngay trong cái đang khẳng định. Đây
là những nghiền ngẫm triết học tinh tế và có chiều sâu, thỏa mãn phần nào nhu
cầu trí tuệ của người đọc (nhất là người đọc trẻ tuổi ham hiểu biết thơ Xuân
Diệu). Chỗ bất cập của Xuân Diệu là thi sĩ quá nghiêng về cái “qua”, cái “già”
(tức là cái phủ định) nên quan niệm sống của Xuân Diệu có phần thiếu bình tĩnh,
ổn định mà hơi ngả về phía “vội vàng” đến hốt hoảng, cuống quít, tạo nên hơi thở
gấp gáp rất riêng trong thơ Xuân Diệu.
Vì vậy, bi kịch trong nhận thức tràn vào tâm hồn, Xuân Diệu nhìn
đâu cũng thấy mất mát, cũng thấy chia li:
Mùi tháng năm đang rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
Nôi đau thấm cả vào cơn gió, tiếng chim, nhưng đau nhất là tuổi
trẻ nhạy cảm đang khát sống:
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi.
Nhìn tổng thể, nỗi đau vừa tương phản với tình yêu để tạo thành bi
kịch, vừa là kết quả của tình yêu. Bởi vì, nếu không biết yêu cuộc sống thiết
tha, sâu sắc đến thế, làm sao biết xót đau khi hiểu rằng thời gian luôn chảy
trôi, không có gì bền vững, nhất là sự hữu hạn của mùa xuân, tuổi trẻ, kiếp
người. Cho nên, vội vàng là nỗi đau lớn của một tình yêu lớn.
Bốn câu thơ ở khổ 1 là một khát vọng chống lại quy luật tự nhiên:
“Tôi muốn tắt nắng đi – Cho màu đừng nhạt mất – Tôi muốn buộc gió lại – Cho
hương đừng bay đi”. Đây là khổ thơ duy nhất Xụân Diệu dùng thể ngũ ngôn để tạo
một giọng điệu gọn, chắc, thể hiện ý chí mạnh mẽ muốn chặn đứng bước chân thời
gian. Nhưng ý chí chủ quan sao thắng được quy luật khách quan. Vì thế, hơi thơ
mạnh mà bên trong vẫn hẫng hụt, bất lực…
Nhưng Xuân Diệu đâu có chịu bó tay. Phải tìm một cách khác: hãy
tận hưởng cuộc sống. Đó là nội dung chủ yếu của đoạn kết: “Ta muốn ôm Cả sự
sống mới bắt đầu mơn mởn, Ta muốn riết mây đưa và gió lượn – Ta muốn say cánh
bướm với tình yêu – Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều – Và non nước, và cây,
và cỏ rạng – Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng – Cho no nê thanh
sắc của thời tươi – Hỡi xuân hồng, ta muôn cắn nào ngươi!’. Hệ thống từ: ôm,
riết, say, thâu, cắn là một trường cảm xúc ngày một dâng trào, bộc lộ một khát
vọng sống mãnh liệt và cường tráng. Trái tim yêu của Xuân Diệu như muốn càng ra
chứa hết vũ trụ. Câu kết bài thơ đẹp rực rỡ. Cuộc sống mơn mởn, tròn căng hấp
dẫn như trái xuân hồng. Thi sĩ ước vọng được “cắn” vào quả đời ấy để tận hưởng
một cách nhục cảm, hết mình mọi hương vị cuộc sống. Chỉ có Xuân Diệu mới tạo ra
kiểu cảm xúc táo bạo, mới lạ mà tinh khiết như thế.
Nhờ trí tưởng tượng táo bạo, mới mẻ, của Xuân Diệu mà nhiều người
trong chúng ta muốn trở lại tuổi trẻ của mình, để sống hết mình với thiên nhiên
tươi đẹp, với chốn thiên đường hiện hữu ngay trên mặt đất này. Không chỉ ca
ngợi cảnh đep nhà thơ muốn đưa ra một lời khuyên cho thế hệ trẻ đùng để tuổi
trẻ của mình trôi đi một cách phí hoài, hãy sống để có ích cho bản thân và cho
xã hội, sống để được hưởng trọn vẹn vẻ đẹp của cuộc đời.
Website của Thu Trang, giáo viên trường THPT Tạ Uyên ,Yên Mô, Ninh Bình
Sống vội vàng không có nghĩa là sống gấp, sống ích kỉ trong hưởng thụ. “Vội vàng” thể hiện một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Biết quý trọng thời gian, biết quý trọng tuổi trẻ, biết sống cũng là để yêu; tình yêu lứa đôi, tình yêu tạo vật. Tình cảm ấy đã thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ, cấp tiến. Bảy thập kỉ sau bài thơ “Vội vàng” ra đời, nhiều câu thơ của Xuân Diệu vẫn còn làm cho không ít người ngỡ ngàng! Xuân Diệu đã sống “Vội vàng” như vậy. Với hơn 50 tác phẩm, hơn 400 bài thơ tình, ông đã góp phần làm giàu đẹp cho nền thi ca Việt Nam hiện đại.
Nhà thơ Xuân Diệu đã đi vào thế giới vĩnh hằng những tao nhân mặc khách, nhưng ta vẫn cảm thấy ông đang hiện diện giữa cuộc đời và hát ca:
– “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
– “Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ!
Em, em ơi! Tình non sắp già rồi…”
Bài thơ “Vội vàng” cho thấy một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, rất nhân văn, một giọng thơ sôi nổi, dâng trào và lôi cuốn, hấp dẫn. Có chất xúc giác trong thơ. Có cách dùng từ rất bạo, cách cấu trúc câu thơ, đoạn thơ rất tài hoa. “Vội vàng” tiêu biểu nhất cho “Thơ mới”, thơ lãng mạn 1932-1941.
Lượt truy câp: 3757896
Trong ngày:
Đang online: 31