Nghiên cứu, xây dựng chương trình nâng cao kiến thức thông tin cho sinh viên theo cách đánh giá của UNESCO
[ 04/10/2017 17:09 PM | Lượt xem: 226 ]

Vào những năm 50, người ta nhận thấy sự phát triển không ngừng của các lĩnh vực phi nông nghiệp, phi công nghiệp ở một số nền kinh tế tiên tiến. Sự phát triển đó được xem là hạt nhân của nền kinh tế mới đang nổi lên, trong đó thông tin là một trong những yếu tố đóng vai trò chủ đạo, trở thành tín hiệu điều khiển nền kinh tế. Sự gia tăng của các thông tin và công nghệ thông tin đã tạo tiền đề cho ngành công nghiệp nội dung số (CNNDS) ra đời và nó dần trở thành thước đo để đánh giá sự phát triển nền kinh tế của một quốc gia.

Với hàm nghĩa công nghiệp là một hoạt động kinh tế có quy mô lớn với những sản phẩm làm ra trở thành hàng hoá và dịch vụ. Như vậy, khi nội dung số phát triển đến quy mô hàng hoá, dịch vụ nhất định nó sẽ trở thành một ngành công nghiệp. Và có thể hiểu khái niệm ngành CNNDS đơn giản là ngành công nghiệp thiết kế, sản xuất, xuất bản, lưu trữ, phân phối và ấn hành các sản phẩm nội dung dưới dạng số truyền tải trong môi trường điện tử. CNNDS là sự kết hợp của các nhóm ngành công nghệ thông tin, truyền thông và những ngành sản xuất nguyên liệu đầu vào như: văn hoá, giáo dục, y tế…

CNNDS phát triển mạnh đã thâm nhập sâu vào nhiều lĩnh vực mà trước đây chưa được coi là ngành sản xuất. Những thay đổi nhanh chóng trong chuỗi giá trị sản xuất, phân phối và sử dụng nội dung số đã tạo ra nhiều mô hình kinh doanh năng động. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức đặt ra, đặc biệt đối với các nhà quản lý trong xây dựng môi trường kinh doanh và chính sách thị trường để ngành CNNDS không ngừng phát triển.

1. Thực trạng và cơ hội phát triển công nghiệp nội dung số ở Việt Nam

Thực trạng ngành công nghiệp nội dung số

CNNDS xuất hiện ở Việt Nam từ năm 1990, nhưng chỉ mới phát triển vào những năm gần đây với các loại hình dịch vụ giáo dục trực tuyến, game online (trò chơi trực tuyến), trò chơi tương tác trên truyền hình, trên điện thoại di động… Lĩnh vực CNNDS hiện nay đang được định hướng phát triển tập trung vào nhóm vấn đề liên quan đến: Phát triển nội dung số cho Internet (cổng thông tin điện tử, dịch vụ email, dịch vụ tìm kiếm trên Internet…); Phát triển nội dung số cho mạng điện thoại di động; Giáo dục điện tử trực tuyến E-learning (đào tạo trực tuyến, tư vấn, tra cứu thông tin qua mạng, cung cấp chương trình học tập, giáo trình, bài giảng, thí nghiệm ảo…); Trò chơi điện tử; Cơ sở dữ liệu (văn bản pháp quy, số liệu thống kê, dữ liệu chuyên ngành, dữ liệu doanh nghiệp…) và những nội dung số phục vụ giải trí (truyền hình kỹ thuật số, sản phẩm đa phương tiện số…). Thị trường nội dung số nước ta gần đây rất sôi động, nội dung số được Việt hoá như quảng cáo, trò chơi, tin tức, âm nhạc, phim ảnh… xuất hiện ngày càng nhiều. Sự bùng nổ nội dung số trên điện thoại di động buộc các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông phải chạy đua về công nghệ, hướng tới cung cấp cho người sử dụng các dịch vụ về điện thoại, truyền hình, truyền dữ liệu… trong môi trường không dây và phát triển mạnh dịch vụ liên kết giữa điện thoại di động với Internet. Xu hướng liên mạng phát triển trong tương lai sẽ tạo ra khả năng truy cập vào các mạng ở mọi nơi, mọi lúc.

Cho đến nay CNNDS vẫn là lĩnh vực giữ được tốc độ tăng trưởng khá, năm sau cao hơn năm trước. Ước tính năm 2012, CNNDS đạt doanh thu 1,3 tỷ USD (tăng trưởng khoảng 12%). Ba doanh nghiệp chủ lực là VNG, VTC online và FPT online. Việt Nam trở thành thị trường game lớn nhất khu vực Đông Nam Á và trở thành một trong mười thị trường game online có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Trong năm 2012, doanh thu của game online đạt 5.000 tỷ VNĐ, tăng khoảng 20% so với năm 2011 (số liệu của công ty GameK). Thị trường xuất khẩu nội dung game online chủ đạo là Nhật Bản, Trung Quốc, các nước Mỹ la tinh và một số nước châu Âu.

Cơ hội phát triển công nghiệp nội dung số

Đón nhận xu thế toàn cầu hoá và xu hướng phát triển các tập đoàn viễn thông đa quốc gia trong lĩnh vực nội dung số, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản, chính sách, chương trình, dự án ưu tiên phát triển ngành công nghệ thông tin, trong đó CNNDS được xem là mũi nhọn phát triển. Nghị định 108/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điểm của Luật đầu tư đã đưa “sản xuất sản phẩm phần mềm, nội dung thông tin số” vào danh mục lĩnh vực được đặc biệt ưu đãi đầu tư. Tháng 5/2007, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định 56/2007/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phát triển CNNDS đến năm 2010. Theo đó, CNNDS được coi là một ngành kinh tế mới, có nhiều tiềm năng phát triển, đem lại giá trị gia tăng cao, thúc đẩy sự phát triển của xã hội thông tin và kinh tế tri thức, góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết nhấn mạnh, Nhà nước đặc biệt khuyến khích, ưu đãi đầu tư và hỗ trợ phát triển công nghiệp này thành một ngành kinh tế trọng điểm. Nhà nước dành một phần ngân sách đầu tư đào tạo nguồn nhân lực, phát triển cơ sở hạ tầng thông tin – truyền thông hiện đại, hoàn thiện môi trường pháp lý, tạo môi trường thuận lợi, có chính sách đặc biệt ưu đãi đối với một số sản phẩm trọng điểm và khuyến khích phát triển thị trường nội dung thông tin số.

Cụ thể hoá mục tiêu phát triển, Quyết định 56/2007/QĐ-TTg chỉ ra: Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của CNNDS phải đạt từ 30-40%, đạt tổng doanh thu 400 triệu USD/ năm; Xây dựng từ 10-20 doanh nghiệp nội dung số mạnh, có trên 500 lao động chuyên nghiệp; Làm chủ các công nghệ nền tảng, sản xuất được một số sản phẩm trọng điểm có khả năng cạnh tranh trong CNNDS; Hình thành hệ thống thư viện số trực tuyến; Xây dựng một số cơ sở dữ liệu chuyên ngành; Cung cấp hiệu quả các dịch vụ tư vấn khám, chữa bệnh và đào tạo từ xa.

Nhằm phát triển thị trường, chương trình CNNDS đã đưa ra giải pháp kích cầu, phát triển thị trường nội địa và xuất khẩu hướng vào thu hẹp khoảng cách số giữa thành thị và nông thôn, nâng cao nhận thức và văn hoá sử dụng Internet, sản phẩm, dịch vụ nội dung thông tin số; tăng cường quản lý để đảm bảo môi trường cạnh tranh bình đẳng, chống gian lận thương mại, vi phạm sở hữu trí tuệ…

Để đảm bảo cho sự phát triển của từng lĩnh vực, chương trình phát triển công nghiệp số của nhà nước có giải pháp huy động nguồn lực và thu hút đầu tư; phát triển hạ tầng truyền thông, Internet; đào tạo phát triển nguồn nhân lực; đẩy mạnh nghiên cứu phát triển và tăng cường bảo đảm an toàn, an ninh và sở hữu trí tuệ.

Cùng với những giải pháp thực hiện, về chính sách, chương trình hướng vào việc xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn triển khai thực hiện và tăng cường hiệu lực của các bộ luật có liên quan như: Luật Giao dịch điện tử, Luật Công nghệ thông tin, Luật Sở hữu trí tuệ, đơn giản hoá thủ tục quản lý Internet; tạo môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng trong giao dịch, thanh toán, chứng thực điện tử; đảm bảo an toàn, bảo mật thông tin; ban hành các quy định cụ thể về bảo vệ thông tin cá nhân, bảo vệ bí mật kinh doanh và quyền riêng tư của người tham gia giao dịch điện tử.

Nguồn kinh phí thực hiện các dự án của CNNDS được huy động từ ngân sách trung ương 40%; 30% từ ngân sách địa phương và số còn lại được huy động từ sự đóng góp của các tổ chức doanh nghiệp và cá nhân trong và ngoài nước. Nguồn nhân lực trong lĩnh vực nội dung số đang từng bước được chú ý đào tạo và nâng cao tay nghề. Tận dụng thị trường lao động dồi dào, trẻ, khoẻ, có khả năng tiếp cận công nghệ nhanh. Đây là những yếu tố tạo nên tiềm lực cho ngành công nghiệp non trẻ này phát huy hơn nữa thế mạnh của mình trong thời gian tới.

2. Thách thức đối với sự phát triển ngành công nghiệp nội dung số

Hạn chế về thị trường và sản phẩm - dịch vụ

Dù là nằm trong khu vực phát triển năng động nhất ở Đông Nam Á, song việc phát triển CNNDS vẫn không tránh khỏi sự cạnh tranh khốc liệt, đặc biệt là với Trung Quốc và các nước trong khu vực. Bên cạnh đó hệ thống sản phẩm và dịch vụ nội dung số của nước ta còn quá khiêm tốn, không đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm nội dung số của thị trường nước ngoài. Chính hạn chế này đã đưa đến những khó khăn khi đưa các sản phẩm nội dung số ra ngoài thị trường thế giới và ngay ở thị trường trong nước, các sản phẩm, dịch vụ thông tin số cũng khó đứng vững trước sự đa dạng và phong phú về loại hình và chất lượng của các nước khác. Như vậy, vấn đề giảm sức cạnh tranh trên thị trường đã làm cho hiệu quả kinh tế của ngành CNNDS không đạt được kết quả như mong đợi.

Hạn chế về nguồn nhân lực

Tuy đã có một đội ngũ khoảng trên 10 nghìn người tham gia vào lĩnh vực CNNDS nhưng nhu cầu nhân lực của các doanh nghiệp công nghiệp số hiện nay rất lớn và cấp bách, vượt quá khả năng đáp ứng của thị trường. Bên cạnh đó, còn tồn tại khoảng cách khá lớn giữa nội dung đào tạo và yêu cầu của nhà tuyển dụng. Các trường chưa có nhiều khoá học, môn học chuyên sâu về CNNDS. Thiếu các chuyên viên, kỹ sư có trình độ về đa phương tiện số. Thiếu đội ngũ nhân lực vừa am hiểu nghệ thuật, vừa am hiểu công nghệ. Chưa có nhiều các chương trình đào tạo nâng cao kỹ năng về CNNDS. Nhìn chung, đội ngũ phát triển nội dung còn mỏng và yếu, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu phát triển của ngành.

Hạn chế về viễn thông và đường truyền

Dung lượng và giá đường truyền Internet còn hạn chế. Hạ tầng băng rộng chưa phát triển đủ mạnh. Giá thuê kênh truyền vẫn cao so với khu vực và quốc tế. Dung lượng và chất lượng đường truyền còn nhiều vấn đề. Các dịch vụ thông tin di động 3G, 4G đã triển khai nhưng phát triển còn chậm. Dịch vụ truyền dữ liệu trên mạng di động chưa được phổ biến do giá truy cập còn cao.

Môi trường pháp lý còn thiếu

Môi trường pháp lý cho CNNDS còn rất thiếu. Nhà nước cần nhận diện rõ ngành công nghiệp này để có văn bản quản lý, hỗ trợ phù hợp. Nhà nước đã có một số văn bản về quản lý phát hành các trang thông tin điện tử, nội dung điện tử, tuy nhiên chưa đầy đủ và còn nhiều bất cập. Thông tư liên bộ về game online chưa đầy đủ. Bên cạnh đó, môi trường pháp lý về sở hữu trí tuệ còn nhiều vấn đề như: Thiếu các văn bản dưới luật để quy định rõ các trường hợp vi phạm; Thiếu các quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; Thiếu các chế tài xử phạt; Tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm cao.

Nguồn kinh phí và thu hút đầu tư nước ngoài

Nguồn kinh phí dành riêng cho việc phát triển ngành CNNDS ở nước ta còn thiếu, không đủ để triển khai tất cả những hạng mục nội dung quan trọng của ngành công nghiệp thông tin mũi nhọn này. Mặc dù đã tham gia nhiều tổ chức, liên hiệp quốc tế như: WTO, World B Mở đầu

Từ khoảng cuối những năm 1990, đầu năm 2000, kiến thức thông tin (KTTT) là một chủ đề thu hút sự quan tâm của đông đảo giới nghiên cứu, giảng dạy cũng như đội ngũ người làm thư viện (NLTV) nói chung trên các phạm vi. Vấn đề quan trọng tới mức mà trong cơ cấu tổ chức của mình, IFLA đã có hẳn một bộ phận chuyên theo dõi và quan tâm đến vấn đề này (Information Literacy Section). Cũng theo hướng này, nhiều tổ chức trên thế giới đã nghiên cứu, xây dựng và phổ biến các tiêu chuẩn, mô hình về KTTT. Các kết quả nghiên cứu này là cơ sở khoa học và thực tiễn thiết yếu để các thư viện nói chung và thư viện đại học nói riêng triển khai các chương trình, kế hoạch nhằm nâng cao KTTT đối với cộng đồng người đọc của mình. Tiêu biểu trong số này là Mô hình KTTT 7 trụ cột (7 Pillars Model for Information Literacy) do Hiệp hội Thư viện đại học quốc gia và cao đẳng Anh (SCONUL) phổ biến năm 2004; Mô hình về 8 thành tố chính của KTTT do Viện đào tạo NLTV chuyên nghiệp Chareterd Anh (CILIP) phổ biến năm 2004; 9 tiêu chuẩn về KTTT do Hiệp hội NLTV trường học Mỹ (AASL) và Hiệp hội Truyền thông và Công nghệ giáo dục Mỹ (AECT) xây dựng và phổ biến [5, 6, 7]... Và gần đây nhất, năm 2013, UNESSCO đã xuất bản tài liệu mang tính chất cẩm nang tra cứu, hướng dẫn nghiệp vụ cho các thư viện và cơ quan thông tin (TT) trên toàn thế giới [4].

Từ trước đến nay, việc nâng cao KTTT cho sinh viên (SV) đã được triển khai, song mới chỉ dừng ở mức độ hết sức giản lược và nhìn chung các mục đích chính ở đây chỉ là hướng dẫn khai thác sử dụng một thư viện đại học cụ thể. Đã đến lúc, nếu chỉ duy trì việc mang đến cho bạn đọc nội dung đó, thì việc nâng cao KTTT ở đây chỉ mang tính chất chiếu lệ và vì thế khó có thể đánh giá về hiệu quả mà nó mang lại. Qua nghiên cứu, tìm hiểu tài liệu, thấy rõ tính chất phức tạp song đầy hấp dẫn của KTTT và nhiều nội dung có khả năng hấp dẫn và hữu ích nếu như đến được với SV. Bài viết đã giới thiệu nội dung chính của khung đánh giá KTTT của UNESCO, phác thảo khung chương trình nâng cao KTTT dành cho SV và việc tổ chức triển khai chương trình nâng cao KTTT cho SV tại thư viện đại học nhằm góp phần nâng cao KTTT cho SV, giới thiệu đầy đủ những giá trị của KTTT và nhằm đáp ứng được yêu cầu trong quá trình đổi mới giáo dục và đào tạo hiện nay.

1. Nội dung chính đánh giá về kiến thức thông tin của UNESCO

Hiện nay, tồn tại một số tiêu chuẩn mang tính chất quốc tế về KTTT. Về đại thể, các tiêu chuẩn này là sự cụ thể hoá ở những mức độ và cách tiếp cận khác nhau, phản ánh khả năng hay yêu cầu mà một người đạt được khi được trang bị một cách cơ bản và toàn diện về KTTT. Trên cơ sở các khái niệm đã được giới thiệu trong những nguồn TT khác nhau (từ điển ODLIS, CILIP, SCONUL…), có thể hệ thống hoá các nội dung chính của KTTT được thể hiện qua các khía cạnh sau:

- Hiểu rõ và thể hiện tường minh, chính xác, sát hợp nhu cầu tin, từ đó hiểu và biết rõ được mọi dạng tồn tại của TT phù hợp với nhu cầu tin này.

- Kỹ năng tìm được TT cần thiết, gồm cả sự hiểu biết về cách tổ chức của thư viện, các nguồn/ hệ thống TT; Sử dụng thuần thục các phương pháp, kỹ thuật, phương tiện tìm tin.

- Có kỹ năng tự tổ chức, quản lý TT; Có khả năng tích hợp TT thu nhận được vào nền tảng tri thức của bản thân.

- Có thói quen, luôn sẵn sàng và các kỹ năng cần thiết trong chia sẻ TT với người khác theo đúng luật, hợp đạo đức và có hiệu quả.

Trong tài liệu nêu trên, UNESCO đưa ra khái niệm kiến thức về TT và xuất bản (Media and Information Literacy – MIL). Theo đó, MIL là “tập hợp các năng lực giúp cho mọi người (công dân) có thể truy cập, tìm kiếm, hiểu, đánh giá và sử dụng; có thể tạo ra cũng như chia sẻ được nội dung TT và truyền thông ở mọi dạng thức, sử dụng được các công cụ khác nhau, có thể hiện quan điểm rõ rệt của cá nhân (trong việc sử dụng TT) và (các hoạt động trên được tiến hành) theo cách phù hợp với đạo đức và có hiệu quả nhằm tham gia và khuyến khích các hoạt động mang tính cá nhân, nghề nghiệp và xã hội” [4]. Về cơ bản, nội dung trên là hoàn toàn phù hợp với nội hàm của KTTT hiện đang được sử dụng. Đề cập tới KTTT ở đây, UNESCO nêu lên 3 mức độ, mà tương ứng với chúng là 3 phạm vi để đánh giá: mức độ vĩ mô là Xã hội, mức độ trung bình (meso level) là Tổ chức và mức độ vi mô là Cá nhân [4].

Từ mục đích chính của bài viết này, chúng tôi lựa chọn phân tích các vấn đề của KTTT ở mức độ vi mô và ở đây là việc giới thiệu cách thức mà UNESCO đã cụ thể hoá các khía cạnh tổng quát về KTTT đối với mỗi cá nhân. Bài viết sẽ chủ yếu dành để giới thiệu khía cạnh thứ nhất (Ma trận phản ánh năng lực KTTT - MIL Competency Matrix) của nội dung 2 (Năng lực KTTT - MIL Competencies)[1].

Ma trận phản ánh năng lực về KTTT được thiết lập trên cơ sở 3 yếu tố cấu thành là:

- Truy cập và Tìm kiếm.

- Hiểu biết và Đánh giá.

- Sáng tạo ra và Sử dụng.

Khi đến lượt, từng yếu tố trên lại được diễn giải, phân tích, suy luận để có thể đi đến đích cuối là hiểu được nội dung của KTTT một cách chi tiết.

Logic trình bày này được diễn giải theo chiều từ cột bên trái chuyển qua cột kế tiếp bên phải của bảng trên [4].

Từ ma trận này cho thấy, theo quan điểm của UNESCO, người có KTTT là người có 12 khả năng đã được mô tả ở cột thứ 3.

2. Phác thảo khung chương trình nâng cao kiến thức thông tin cho sinh viên theo quan điểm của UNESCO

Mục đích ở đây là phác thảo được một khung chương trình nâng cao KTTT cho SV với ý đồ hướng đến giúp họ đạt được những khả năng mà UNESCO yêu cầu ở một mức độ xác định.

Thực tiễn hiện hay cho thấy, khi bước vào trường đại học, về cơ bản, các SV đã trang bị, tích luỹ được một số kỹ năng cơ bản liên quan tới KTTT sau:

- Sử dụng những bộ máy tìm kiếm tài liệu của các thư viện phổ thông (mục lục dạng phiếu, mục lục dạng sách, cơ sở dữ liệu thư mục…).

- Sử dụng một số dịch vụ phổ biến trên Internet (thư điện tử, facebook, truyền tệp, tìm tin trên các mạng công cộng miễn phí, các nguồn tin truy cập mở…).

- Tìm hiểu, thu thập TT về các tổ chức, cá nhân bằng việc truy cập các trang chủ tương ứng hay các nguồn tin hữu quan.

Khi bước vào học tập, nghiên cứu tại trường đại học, nhất là trong bối cảnh có những đổi mới sâu sắc và toàn diện về giáo dục, đào tạo (ví dụ, việc đào tạo theo phương thức tín chỉ đang dần được thay thế phương thức đào tạo theo niên chế trên một quy mô rộng rãi), thì vai trò của KTTT đối với SV ngày càng trở nên quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến cách thức và kết quả học tập, nghiên cứu của họ. Lúc này, phương thức học tập, nghiên cứu đòi hỏi khoảng thời gian mà SV phải thu thập TT, xử lý tài liệu (nguồn học liệu) để học tập, nghiên cứu được tăng lên rõ rệt so với cách thức đào tạo trước đây. Điều này đã làm thay đổi đáng kể vai trò và trách nhiệm của giảng viên, từ vị trí là người chủ động cung cấp kiến thức, TT, tri thức cho người học đến vị trí là người dẫn dắt, hướng dẫn SV tiếp cận tới các nguồn TT thích hợp, hoặc cũng có thể giúp SV biết cách chủ động tìm kiếm TT bổ trợ để tích luỹ được kiến thức, tri thức cho mình. Và lúc này, SV thực hiện việc học tương tự như quá trình một người nghiên cứu để đến được với tri thức khoa học [2, 7, 8, 10]. Trong bối cảnh mà ở đâu và việc gì trong trường đại học (liên quan trực tiếp đến việc học tập, nghiên cứu) đều thấy cần phải có TT, cần phải tiếp cận, truy cập, lựa chọn, đánh giá, khai thác, tạo lập, trao đổi TT, thì rõ ràng vai trò của thư viện đại học ngày càng được khẳng định, vai trò của KTTT đối với việc học tập và nghiên cứu ngày càng trở nên thiết yếu, quan trọng. Nói một cách giản lược, người SV hiện đại, người có thể thích ứng và tận dụng được các cơ hội mà sự đổi mới trong giáo dục và đào tạo mang đến là người có 12 khả năng nêu trên. Một chương trình nâng cao KTTT tích cực là một chương trình mà từng bước một làm cho SV có được những khả năng đó. Cũng cần lưu ý, dải phổ (độ dao động về trình độ/ mức độ) của các khả năng trên là khá lớn, điều đó làm cho việc nâng cao KTTT là một việc làm liên tục, gần như suốt đời, tựa như triết lý của việc học - Học! Học nữa! Học mãi! Và cũng vì thế mà có một thuận lợi trong việc xây dựng khung chương trình nâng cao KTTT ở đây là: Có thể khá mềm mỏng và linh hoạt, khả năng cá thể hoá cao [3] trong việc xác định các đích cần đến của chương trình đối với mỗi cộng đồng, mỗi giai đoạn khác nhau.

Tuy nhiên, để một chương trình hữu dụng như thế trở nên khả thi trong những điều kiện cụ thể hiện nay là một công việc không đơn giản, mà trước hết là ở việc xác lập được những nội dung thiết yếu, hợp lý, những mục đích thiết thực trong đó. Bởi xét cho cùng, các nguồn lực (bao gồm nhân lực, tài lực, vật lực và quỹ thời gian) mà mỗi thư viện đại học có thể sử dụng để triển khai chương trình này là hạn chế, nếu không muốn nói là rất hạn chế. Bởi vậy, một số trong các nguyên tắc để xây dựng chương trình ở đây phải là:

- Cần lồng ghép để đạt được ở mức tối ưu các hoạt động khác nhau hỗ trợ cho việc thực hiện mục tiêu mà chương trình đề ra [8, 10].

- Cần có chiến lược hợp lý và lâu dài trong việc thu hút các nguồn lực bên ngoài thư viện để thư viện luôn chú trọng tới việc xây dựng, triển khai các chương trình, dự án, đề án mang tính chất out-sourcing (thu hút/ tạo nguồn từ bên ngoài).

- Chương trình được xây dựng cần được tạo nên từ một số module tương đối độc lập với nhau, mà mỗi một module cũng có sự độc lập tương đối, để đạt được những mục tiêu cụ thể (tạo điều kiện để chương trình sẽ được triển khai một cách linh hoạt).

Trên cơ sở các phân tích và đối chiếu trên đây, có thể xác định một số nội dung trọng tâm cần được đề cập trong chương trình nâng cao KTTT cho SV theo quan điểm của UNESCO.

Chương trình có thể chia thành 4 nhóm mục tiêu chính như sau:

Mục tiêu 1: Nâng cao nhận thức.

Mục tiêu 2: Nâng cao kỹ năng.

Mục tiêu 3: Nâng cao hiệu quả.

Mục tiêu 4: Nâng cao trách nhiệm.

Bảng dưới đây sẽ phân tích, đối chiếu để xác định mục đích và nội dung chính cần thực hiện để đạt được các mục tiêu đề ra (bảng dưới).

Như đã nêu, một nguyên tắc cơ bản trong xây dựng chương trình nâng cao KTTT ở đây là đòi hỏi phải có sự lồng ghép hợp lý việc thực hiện các nội dung cần nâng cao với các hoạt động khác nhau, chứ không phải chỉ thuần tuý là các bài giảng như thường thấy trước đây. Việc trình bày ở cột thứ 3: Nội dung chính (của chương trình, gồm 19 nội dung chính) dưới các hình thức ký tự khác nhau là có chủ đích thể hiện cách thức lồng ghép có thể được thực hiện tại đây. Cụ thể:

- Các nội dung được phản ánh dưới hình thức đoạn văn bản có gạch chân: Được thực hiện dưới dạng các bài giảng, các khoá tập huấn, đào tạo, mang tính chất chuyên môn, nghiệp vụ thư viện.

- Các nội dung được phản ánh dưới hình thức đoạn văn bản in nghiêng: Được thực hiện lồng ghép dưới dạng các hoạt động marketing mà các doanh nghiệp TT và xuất bản hướng đến cộng đồng người dùng tin trực tiếp.

Các nội dung được phản ánh dưới hình thức đoạn văn bản thông thường: Được thực hiện lồng ghép dưới dạng các seminar, các sinh hoạt khoa học chuyên đề do những chủ thể khác nhau thực hiện.

Phần dưới đây sẽ nêu cụ thể hơn cách thức huy động các nguồn lực để triển khai chương trình đã được xây dựng.

3. Tổ chức triển khai chương trình nâng cao kiến thức thông tin cho sinh viên tại thư viện đại học

Nhìn chung, một chương trình với mục tiêu nâng cao KTTT một cách toàn diện dù dành cho bất kỳ nhóm đối tượng nào thì cũng luôn là một chương trình lớn, cồng kềnh, chứa đựng nhiều nội dung phức tạp, đòi hỏi được triển khai dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Ở đây, đối tượng thụ hưởng chương trình là SV – đội ngũ tri thức, nguồn nhân lực khoa học chủ chốt và chiếm số lượng lớn nhất của xã hội học thức, của nền kinh tế dựa trên TT và tri thức của đất nước trong tương lai. Như vậy, có nghĩa là: các nội dung và mục tiêu mà chương trình này cần đạt được là ở mức cao nhất, với những đòi hỏi gắt gao nhất, với các nội dung cần được cập nhật nhanh nhất… Chính vì vậy, vấn đề tổ chức triển khai chương trình đóng vai trò quyết định trực tiếp đến việc các mục đích đề ra có đạt được như kỳ vọng hay không.

Trước hết cần khẳng định, đội ngũ trực tiếp triển khai chương trình là vô cùng quan trọng, có vai trò quyết định không chỉ tới chất lượng của chương trình, mà còn quyết định tới việc chương trình có triển khai được hay không. Và cũng cần khẳng định, những NLTV chuyên nghiệp hay một chuyên gia trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng không thể có đủ điều kiện và khả năng thực hiện tất cả các nội dung chính nêu trên bởi tính chất và đòi hỏi của các nội dung này ở các lĩnh vực chuyên môn nghiệp vụ là rất khác nhau.

Bảng dưới đây phản ánh đề xuất chủ quan của chúng tôi để thực hiện các nội dung chính ở các khía cạnh: Module (đề xuất) - hình thức triển khai – nội dung bao quát và người thực hiện chính.

Về nguyên tắc, mỗi module trên đây đều có các nội dung và mục đích tương đối độc lập với nhau. Do đặc điểm đối tượng thụ hưởng chương trình là SV đại học nên các module này có thể hoán vị về thời gian thực hiện với nhau. Tuy nhiên, chúng tôi khuyến nghị trật tự và khoảng thời gian thực hiện và các nhóm đối tượng cụ thể được thụ hưởng là như sau:

+ Các chủ đề nội dung 1, 2 và 3: Nên được tiến hành trước và hướng đến đối tượng là SV năm thứ nhất. Thời lượng: 10 tiết học.

+ Các chủ đề nội dung 4, 5 và 6: Nên được thực hiện kế tiếp và hướng đến đối tượng là SV năm thứ 2. Thời lượng: 10 tiết học.

+ Các chủ đề nội dung 7: Nên được thực hiện cuối cùng và hướng vào đối tượng là SV năm thứ 3 hoặc năm thứ 4. Thời lượng: 5 tiết học.

4. Kết luận

KTTT là một vấn đề mang tính liên ngành rất rõ rệt. Nó được hình thành và phát triển trên nền tảng thuộc nhiều lĩnh vực và phương diện khác nhau. KTTT được biết đến như sự phản chiếu tầm hiểu biết và tri thức ở mỗi người; như kỹ năng hay sự thuần thục của mỗi cá nhân khi khai thác các nguồn/ hệ thống TT; như đạo đức và ý thức trách nhiệm của mỗi thành viên trong một xã hội TT, trong một môi trường được bao bọc bởi TT, một bầu khí quyển TT… Cả về phương diện lý thuyết và thực tiễn, chỉ có những ai có KTTT ở phạm vi toàn diện, chỉ có những ai luôn tâm niệm làm sao để không ngừng nâng cao KTTT cho mình, thì người đó, chủ nhân đó mới thực sự trở thành một người góp phần thiết thực dựng xây một xã hội tri thức, xã hội học thức cho ngày hôm nay và ngày mai. Và chỉ khi đó họ mới có thể trở thành một công dân tích cực của xã hội, có những đóng góp bền bỉ và thầm lặng cho sự phát triển của xã hội, của đất nước, của cộng đồng và của chính mình. Và tất nhiên, cũng vì thế họ mới có thể là người đủ điều kiện và khả năng thụ hưởng được nhiều nhất từ các tiến bộ và sự phát triển mới nhất của xã hội.

Người SV có KTTT là người chuẩn bị tốt cho mình khả năng thích ứng với các đòi hỏi của xã hội ở mức cao hơn so với các SV khác và do vậy, họ dễ có một tương lai tốt đẹp cho cuộc sống và công việc của mình. Nâng cao kiến thức cho SV tại các thư viện đại học không chỉ là việc mang tới cho họ nhiều cơ hội hơn, mang tới cho họ một tương lai tốt đẹp hơn, mà quan trọng và căn bản hơn chính là chúng ta đang góp phần quan trọng vào việc mang đến cho tương lai một thế hệ tốt, một thế hệ giàu tri thức.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Lê Quỳnh Chi.Thư viện đại học góp phần nâng cao chất lượng đào tạo// Tạp chí Thư viện Việt Nam. - 2008. - Số 2. - Tr. 18-23.

2. 2012 top ten trends in academic libraries : A review of the trends and issues affecting academic libraries in higher education / ACRL Research Planning and Review Committee // College & Research Libraries. – 2012. - Newsvol. 73 . - No. 6 . – P. 311-320.

3.Chowdhury G.Digital libraries and reference service// Journal of Documentation. - 2002. - Vol 58. - No. 2. - P. 258-283.

4. Global Media and Information Literacy Assessement Framework : Country Readiness and Competencies / UNESCO Communication and Information Sector and UNESCO Institute of Statistics. - Paris: UNESCO, 2013. - 152 p.

5. Information Literacy Competcy Standards for Higher Education. http://www.ala. org/acrl/standards/informationliteracycompetency#ildef

6. Introduction to Information Literacy. http://www.ala.org/acrl/issues/infolit/overview/intro.

7. Information literacy - Definition. http://www.cilip.org.uk/cilip/advocacy-campaigns-awards/advocacy-campaigns/information-literacy/information-literacy.

8.Ingura M.M.Basic IL for teachers & librarians: Lecture delivered by MaryAnn Ingua last. - 2008. - 22/5. - 28 p.

9.Lundstrom K., Shrode F.Undergraduates and Topic Selection: A Librarian’s Role // Journal of Library Innovation. - 2013. - Vol. 4. - Issue 2. - P. 23-41.

10.Nera C.M.Information Literacy: the 21st Century Skills: Paper presented during the PLAI-STRLC Regional Conference on Promoting Information Literacy for Lifelong Learning. - 2006. - 25/9 at Capuchin Retreat Center, Lipa City, Batangas. - 48 p.

11. Redefining the Academic Library: Managing the Migration to Digital Information Services / University Leadership Council. - Washington DC.: The Advisory Board Company, 2011. - 51 p.


[1]Nội dung 1: Sự sẵn sàng của đất nước về KTTT (MIL Country Readiness). Khía cạnh thứ hai của nội dung 2 là Mô hình năng lực của người giảng dạy về KTTT (MIL Teacher Competency Model). Sđd, tr. 47.

___________________

Trần Mạnh Tuấn

Viện Thông tin Khoa học Xã hội

Nguồn: Tạp chí Thư viện Việt Nam. - 2015. - Số 1. - Tr. 9-16.

ank… nhưng chúng ta vẫn thu hút được rất ít nguồn vốn ODA vào hỗ trợ phát triển CNNDS. Nguồn kinh phí chủ yếu dựa vào ngân sách của Nhà nước và kinh phí huy động được từ các doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực cung cấp nội dung số ở Việt Nam.

3. Giải pháp đẩy mạnh tốc độ phát triển ngành công nghiệp nội dung số

Để phát triển ngành CNNDS ở Việt Nam, cần xây dựng chiến lược dựa trên những yêu cầu của thực tế. Có sự phối hợp, gắn kết cùng hành động giữa các cơ quan ngang Bộ và có chương trình mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn nhất định. Đặc biệt, cần xác định rõ các lĩnh vực nội dung số trọng tâm như:

- Phát triển nội dung cho Internet (báo điện tử, trang web, tra cứu thông tin…)

- Phát triển nội dung cho mạng di động (tin nhắn tra cứu thông tin, dự đoán kết quả, bầu chọn, tải chuông, logo…)

- Học tập điện tử, giáo dục trực tuyến (E-learning)

- Y tế điện tử (các dịch vụ tư vấn sức khoẻ, khám chữa bệnh qua mạng)

- Thương mại điện tử (thiết kế, quảng cáo, tiếp thị, mua bán trên mạng...)

- Trò chơi điện tử (máy tính, trực tuyến, tương tác, cho thiết bị di động…)

- Thư viện số, Kho dữ liệu số, Ngân hàng dữ liệu…

- Phim số, truyền hình số, hoạt hình và các dịch vụ/ sản phẩm liên quan.

Bên cạnh đó cần tăng cường hơn nữa các giải pháp cụ thể về một số vấn đề sau:

Về hành lang pháp lý

Xây dựng, hoàn thiện môi trường pháp lý, cơ chế chính sách phát triển CNNDS; Xác lập các loại hình, lĩnh vực CNNDS; Xây dựng, hoàn thiện các văn bản quản lý đối với các hoạt động cung cấp (phát hành) nội dung thông tin số; Xây dựng các cơ chế, chính sách ưu đãi hỗ trợ phát triển sản phẩm nội dung số; Xây dựng, hoàn thiện các văn bản pháp lý dưới luật, tăng cường việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho phần mềm, nội dung số. Đẩy mạnh thực thi bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực phần mềm, nội dung số; Xây dựng môi trường pháp lý cho tài sản trí tuệ (IP) trong CNNDS; Củng cố và tăng cường năng lực hoạt động cho cơ quan quản lý nhà nước về CNNDS; Thiết lập quỹ đầu tư mạo hiểm cho CNNDS. Chính phủ cần đỡ đầu cho các dự án, sáng kiến để hỗ trợ phát triển thị trường và phát triển kỹ năng nhân lực cho CNNDS.

Về phát triển hạ tầng viễn thông, Internet

Tập trung đầu tư phát triển đồng bộ hạ tầng băng rộng; Đẩy mạnh đầu tư mở rộng băng thông và nâng cao chất lượng đường truyền viễn thông, Internet; Có cơ chế, chính sách để hạ giá cước thuê bao xuống bằng mức trung bình của khu vực. Đầu tư nâng cấp mạng 3G cho thông tin di động; Nâng cao chất lượng dịch vụ truyền dữ liệu qua mạng di động, giảm giá cước truy cập; Có chính sách thông thoáng, khuyến khích phát triển các dịch vụ trực tuyến để kích thích phát triển hạ tầng viễn thông, Internet; Mở rộng các loại hình kết nối (vệ tinh)…

Về đào tạo, phát triển nguồn nhân lực

Xây dựng, đưa vào chương trình đào tạo các khoá học, môn học chuyên ngành về nội dung số; Dành thêm nhiều chỉ tiêu cho đào tạo về phát triển nội dung số từ chương trình du học bằng tiền ngân sách (đề án 322, đề án 911); Tổ chức các khoá đào tạo nâng cao kỹ năng, cập nhật công nghệ phát triển nội dung số; Hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ; Xúc tiến chương trình đào tạo sử dụng các công cụ phần mềm, phát triển nội dung số cho sinh viên các trường văn hoá, nghệ thuật; Đẩy mạnh đào tạo văn bằng 2 về công nghệ thông tin cho cán bộ, sinh viên các ngành khoa học xã hội, văn hoá, nghệ thuật. Tăng cường hợp tác quốc tế để đưa lao động trong CNNDS ra nước ngoài học tập, làm việc. Tổ chức các cuộc thi, giải thưởng về phát triển nội dung số để khuyến khích những điển hình xuất sắc.

Về phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ nội dung số

Tăng cường các biện pháp kích cầu thị trường trong nước bằng các loại hình sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Đẩy mạnh hoạt động số hoá và xây dựng các thư viện điện tử, trung tâm thông tin điện tử quy mô quốc gia và vùng lãnh thổ. Xác định các loại hình sản phẩm, dịch vụ thông tin số có tiềm năng; Khuyến khích, hỗ trợ tạo lập nội dung thông tin số: Ban hành cơ chế ưu đãi các doanh nghiệp phát triển nội dung số; Khuyến khích việc số hoá các ấn phẩm, báo chí, sách phổ biến kiến thức. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế và khu vực: Xây dựng các dự án để có thể phát triển nội dung số đa ngôn ngữ, đa văn hoá, chú ý đến các sản phẩm bằng tiếng dân tộc thiểu số; Khuyến khích tận dụng khai thác nguồn thông tin (nội dung) trong nước và khu vực; Có cơ chế, chính sách hợp lý để thu hút các công ty nội dung số lớn trên thế giới đầu tư vào Việt Nam. Việc gia nhập WTO buộc Việt Nam phải nhanh chóng hội nhập quốc tế trong tất cả các ngành, lĩnh vực kinh tế.

Về tăng cường đầu tư cho nghiên cứu phát triển

Đầu tư cho các trường đại học làm nghiên cứu và phát triển về công nghệ cho CNNDS. Tận dụng tối đa các nguồn tài trợ, đầu tư cho nghiên cứu và phát triển nội dung số từ nước ngoài. Đầu tư xây dựng các cơ sở nghiên cứu phát triển, các phòng thí nghiệm về công nghệ để các doanh nghiệp có thể dùng chung. Nghiên cứu xây dựng và chuẩn hoá các tiêu chuẩn về phát triển nội dung số. Cởi mở, thông thoáng cơ chế chuyển giao công nghệ. Lập các trại sáng tác kịch bản, nội dung cho phim hoạt hình, chương trình cho truyền hình số…

Về tổ chức lại quy trình sản xuất sản phẩm số hoá

Phân công giữa người biên tập, sáng tác, cán bộ kỹ thuật và những người làm công tác kinh doanh tiếp thị. Phân tích nhu cầu và yêu cầu thị trường đối với sản phẩm và dịch vụ và có chiến lược kinh doanh thích hợp; Số hoá để sản xuất song song hai dạng sản phẩm: in ấn và điện tử hoặc tạo lập các nguồn tin điện tử trên các vật mang tin khác nhau được sử dụng đoạn tuyến hay trực tuyến.

4. Kết luận

CNNDS là một ngành kinh tế mới nhưng phát triển rất nhanh, Nhà nước cần nhanh chóng nhận diện rõ ngành kinh tế này để có biện pháp quản lý, thúc đẩy phát triển phù hợp. CNNDS là ngành kinh tế mang hàm lượng trí tuệ cao, lợi nhuận lớn, đồng thời là động lực và phương tiện để đẩy nhanh quá trình tiến tới xã hội thông tin, kinh tế tri thức. CNNDS sẽ là nền tảng để các chương trình ứng dụng công nghệ thông tin, chương trình Chính phủ điện tử, chương trình tin học hoá nền hành chính nhanh chóng đạt được mục tiêu. Là ngành kinh tế tốt có vai trò chủ chốt trong định hướng cạnh tranh hội nhập và phát triển xã hội trong tương lai. CNNDS được coi là một trong những động lực phát triển bền vững quốc gia. Từ sự khẳng định của lãnh đạo Nhà nước qua Quyết định 56/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, hy vọng CNNDS sẽ là nền tảng tạo tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ của ngành kinh tế quan trọng này trong những giai đoạn tiếp theo. CNNDS đã và đang phát triển ở Việt Nam và dần khẳng định vị trí của mình trên trường quốc tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Thông tin và Truyền thông. Dự thảo chương trình phát triển công nghiệp nội dung số đến năm 2010.

2.Châu Long.Phát triển công nghiệp nội dung số: Nguy nan tứ phía// Tạp chí Tin học và đời sống. - 2008. - Số 10 - Tr. 20-22

3. Chiến lược phát triển công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.

4.Đồng Đức Hùng.Ngành công nghiệp thông tin trong quá khứ hiện tại và tương lai// Kỷ yếu hội thảo khoa học Thông tin khoa học và công nghệ ngày nay. - Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, Hội Thông tin Tư liệu Việt Nam, 2009. - Tr. 51-55.

5.Kiều Gia Như.Singapore với công nghiệp thông tin và truyền thông// Tạp chí Thông tin và phát triển. - 2007. - Số 6 - Tr. 148-150.

6. Luật công nghệ thông tin. - H. : Chính trị Quốc gia, 2006. - 70tr.

7. Nghị định 71/2007CP quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện một số điều luật về công nghiệp thông tin.

8.Nguyễn Tuấn Khoa.Vai trò của thông tin và công nghiệp nội dung trong xã hội thông tin// Kỷ yếu hội thảo khoa học: Xã hội thông tin. - H.: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010. - Tr. 98-100.

9. Quyết định 56/2007/QĐTTg phê duyệt Chương trình phát triển công nghiệp nội dung số đến năm 2010.

10.Trần Minh.Sự gắn kết giữa thương mại điện tử và công nghệ thông tin trong chương trình phát triển công nghiệp phần mềm và chương trình phát triển công nghiệp nội dung số Việt Nam// Kỷ yếu hội thảo Quốc tế thương mại điện tử và Phát triển nguồn nhân lực. - 2011. - Tr 32-38.

11.Viện thông tin Khoa học xã hội Việt Nam.Những thách thức của sự phát triển trong xã hội thông tin// Thông tin khoa học xã hội - chuyên đề, 2005. - 208tr.

_____________

Bùi Thị Thanh Diệu

NCS K6, Ngành Thông tin - Thư viện, Đại học Văn hoá Hà Nội

Nguồn: Tạp chí Thư viện Việt Nam. - 2015. - Số 1. - Tr. 17-22.


< http://nlv.gov.vn/nghiep-vu-thu-vien/Page-8.html >

Khoa Khoa học cơ bản

(0208).3648.433

Liên kết website

Thống kê website

Lượt truy câp: 3757896
Trong ngày:
Đang online: 16